Trong nhiều năm qua, các thế lực thù địch ráo riết thực hiện chiến lược “diễn biến hoà bình” nhằm chống phá chủ nghĩa xã hội (CNXH) và phong trào cách mạng thế giới. Một trong những mũi nhọn chúng thường sử dụng là đả phá mô hình chính trị- xã hội của các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN), trong đó đặc biệt là chế độ một Đảng Cộng sản cầm quyền.
Trong lịch sử
nhân loại, với việc xác lập phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, giai cấp tư
sản đã thực hiện một bước tiến vượt bậc về dân chủ bằng việc xoá bỏ chế độ thần
quyền phong kiến, hình thành xã hội công dân mà ở đó quyền tự do cá nhân được
thừa nhận. Nhưng, sau khi đã thiết lập được quyền thống trị của mình, giai cấp
tư sản từng bước sử dụng dân chủ như một hình thức thống trị giai cấp. Sự hạn hẹp
của nền dân chủ tư sản nằm ngay trong lòng phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa với chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Sự phát triển của lịch sử
trên nền móng của sự phát triển các lực lượng sản xuất với trình độ xã hội hoá
ngày càng sâu rộng của nó tạo ra những tiền đề khách quan để phủ nhận phương thức
tư bản chủ nghĩa, chấm dứt vai trò lịch sử của giai cấp tư sản. Đó cũng chính
là quy luật phát triển nội tại của nền dân chủ xã hội, của bước chuyển biến lớn
lao từ nền dân chủ tư sản sang dân chủ XHCN trên phạm vi toàn thế giới. Quy luật
khách quan sẽ vượt lên trên mọi tranh cãi và ngụy biện để thực hiện quyền tuyệt
đối của mình. Quy luật ấy cũng phản ánh khát vọng nghìn đời của nhân loại muốn
vượt thoát khỏi mọi sự tha hoá để vươn đến tiến bộ và tự do cùng với việc nhận
thức ra lô-gích vận động của xã hội loài người. Hướng đến CNXH là hướng đến một
nền dân chủ tiến bộ và hoàn thiện. Cuộc đấu tranh vì CNXH là cuộc đấu tranh vì
một chế độ dân chủ chân chính nhất. Dân chủ XHCN và dân chủ tư sản khác nhau về
bản chất và về trình độ với tư cách là những xã hội nối tiếp nhau trong nấc
thang từ thấp lên cao của xã hội loài người.
Nền dân chủ vô
sản gắn chặt với cuộc đấu tranh vì CNXH, cho nên nó chỉ có thể thực hiện được bằng
con đường thiết lập quyền lãnh đạo của giai cấp vô sản đối với toàn thể xã hội
thông qua đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản. Chỉ giai cấp vô sản và Đảng
tiền phong của mình với cơ sở xã hội rộng lớn là quảng đại nhân dân lao động và
mục tiêu giải phóng giai cấp, giải phóng lao động, giải phóng xã hội và giải
phóng con người mới có khả năng thiết lập được một nền chuyên chính vừa đảm bảo
dân chủ cũng như các lợi ích căn bản khác của đông đảo quần chúng lao động, vừa
triệt tiêu mọi khả năng phục hồi chế độ bóc lột và nô dịch.
Như đã biết, đa
nguyên về chính trị và đa đảng đối lập là nét đặc trưng của thể chế chính trị
tư sản trên thế giới hiện nay. Nói chung, ở các nước tư bản, về hình thức thì
các đảng chính trị đều “tự do”, “bình đẳng” trong cuộc đấu tranh nghị trường và
đều có khả năng trở thành đảng cầm quyền, nhưng trong thực tế thì chỉ có các đảng
lớn, có thế lực, được sự hậu thuẫn của các tập đoàn tư bản độc quyền mới có khả
năng chiến thắng. Mặt khác, chế độ đa đảng ở phương Tây, xét trong thực chất,
cũng là dựa trên cơ sở nhất nguyên chính trị vì tất cả các đảng cánh hữu đều nhằm
phục vụ chế độ tư bản. Đúng là cơ chế đa đảng đưa lại một số tác động tích cực
nhất định cho các đảng tư sản và chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo điều kiện cho họ
khả năng tránh nguy cơ chuyên quyền, độc đoán thông qua cọ xát, kiềm chế, đối
trọng lẫn nhau. Tuy vậy, thể chế đa đảng này cũng dễ khuyến khích các lực lượng
đối lập vì lợi ích cục bộ chỉ biết phản đối tất cả những gì của đảng cầm quyền,
bất chấp phải- trái, đúng- sai. Hệ quả là làm xuất hiện một nền chính trị vị
quyền lực và một công nghệ đấu đá chính trị trên lưng những lợi ích chính đáng
của đông đảo cử tri. Vì chế độ đa đảng kiểu ấy, nhân dân Mỹ và cả chính quyền Mỹ
vẫn bị các thế lực tư bản độc quyền nhà nước đánh lừa một cách thậm tệ trong cuộc
chiến tranh I- rắc; hàng nghìn dân nghèo Mỹ đã phải gánh chịu thân phận bị bỏ
rơi khi cơn bão Ca-tri-na tàn phá; xã hội Mỹ vẫn là một xã hội nhiều tội phạm
nhất thế giới…
Tính giai cấp của
nền dân chủ tư bản phương Tây được thể hiện thông qua vị trí của tiền bạc ngày
càng trở thành yếu tố quyết định trong đời sống chính trị. Cái gọi là “nền dân
chủ Mỹ” chỉ là nền dân chủ của nhà giàu. Tờ Thời báo tài chính (Anh) ngày
25-11-2000 viết: “Cuộc bầu cử năm 2000 đã cho thấy rõ nền dân chủ Mỹ có thể bán
cho những người trả giá cao nhất”. Có thể gọi đấy là nền dân chủ đấu giá. Tờ Thế
giới (Tây Ban Nha) cùng ngày đã ví thói mê tiền như là “căn bệnh ung thư của nền
dân chủ Mỹ”. Một chính quyền được tạo lập bởi đồng tiền thì tất yếu phải hướng
đến phục vụ những kẻ nhiều tiền, chứ không thể là một “chính quyền của tất cả mọi
người” mà các lý luận gia của họ rêu rao. Sự dối trá của nền dân chủ tư sản đã
bị chính cử tri của họ lột trần bằng hành động tẩy chay các cuộc bầu cử ngày
càng gia tăng. Cuộc bầu cử tổng thống ở Mỹ các năm 1996 và 2000 chỉ có khoảng
50% cử tri tham gia1.
Như vậy, dân chủ
hay không dân chủ không phụ thuộc vào số
lượng các đảng chính trị, vào việc có áp dụng hay không áp dụng chế độ đa
nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Trong từng thời điểm cụ thể, nhà nước nói
riêng và xã hội nói chung đều phải do một đảng lãnh đạo. Có hay không có dân chủ,
dân chủ được thực hiện ở trình độ cao hay thấp, tất cả phụ thuộc vào bản chất của
đảng cầm quyền, chứ không phụ thuộc vào số lượng nhiều hay ít các đảng phái
chính trị.
Trong các nước
XHCN, Đảng Cộng sản là tổ chức thực hiện sự thống trị của giai cấp vô sản, cho
nên sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với hệ thống chính trị là điều đương
nhiên. Điều đó được thể hiện ở đường lối, chính sách của Đảng về chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội sẽ được thể chế
hoá trong toàn bộ Hiến pháp và pháp luật. Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và phát triển của nhà nước XHCN.
Ở Việt Nam, thực
hiện dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân là bản chất, là quy luật
hình thành, phát triển và tự hoàn thiện của Nhà nước Việt Nam XHCN do Đảng Cộng
sản lãnh đạo. Từ khi ra đời đến nay, Đảng là nhân tố đảm bảo mọi thắng lợi của
cách mạng Việt Nam. Đó không phải là ý chí chủ quan về chính trị mà là một tất
yếu khách quan của lịch sử. Mọi mưu toan hạ thấp vai trò của Đảng Cộng sản là
trái với yêu cầu khách quan của quá trình phát triển đất nước và nguyện vọng
chính đáng của nhân dân.
Việc thực hiện
dân chủ ở Việt Nam không có sự cần thiết khách quan cho việc hình thành chế độ
đa đảng đối lập, đa nguyên chính trị. Trên thực tế, Đảng Cộng sản Việt Nam là
người đại diện chân chính duy nhất cho lợi ích và nguyện vọng của nhân dân lao
động trong cuộc đấu tranh bảo vệ quyền sống, quyền tự do, dân chủ và hạnh phúc.
Ngoài Đảng Cộng sản, không một đảng phái hoặc một lực lượng chính trị nào có thể
đưa ra được cương lĩnh, đường lối cho cách mạng Việt Nam, có thể đồng thời giải
quyết hai mục tiêu dân tộc và dân chủ, độc lập dân tộc và CNXH. Cũng đã có lúc,
trên đất nước ta có nhiều đảng, nhưng những đảng khác đã không vượt qua được thử
thách gay gắt của cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân chủ; sứ mệnh lịch sử
của dân tộc ta chỉ do Đảng Cộng sản Việt Nam gánh vác. Những lần vượt qua khó
khăn, thách thức đã thể hiện bản lĩnh vững vàng và trách nhiệm lớn lao của Đảng
đối với vận mệnh của dân tộc và cuộc sống, quyền tự do, dân chủ của nhân dân.
Để thực hành
dân chủ rộng rãi, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương lãnh đạo xây dựng Nhà nước
pháp quyền Việt Nam XHCN. Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Đảng đã
tuyên bố thành lập Nhà nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà, tiến hành tổng tuyển cử và xây dựng Hiến pháp để thể chế hoá quyền
lực của nhân dân lao động. Đảng lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền nhằm khẳng
định nguồn gốc của chính quyền nhà nước là ở nhân dân, đề cao tính hợp hiến, hợp
pháp trong tổ chức và hoạt động của mình và bản thân Đảng cũng tồn tại và hoạt
động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Dưới sự lãnh đạo
của Đảng, dân chủ đã là một sản phẩm thực tế và đang trên đà phát triển với các
thành tựu của sự nghiệp đổi mới. Ngày nay, dân chủ đã được thực hiện trên tất cả
các lĩnh vực: kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị, tư tưởng... Đó là các quyền
sử dụng tư liệu sản xuất, có công ăn việc làm, quyền học tập và hưởng thụ văn
hóa, quyền tham gia quản lý nhà nước, giám sát cán bộ, đảng viên, công chức và
cơ quan Nhà nước, quyền đóng góp ý kiến vào các chủ trương, chính sách, pháp luật,
bày tỏ ý kiến về các hiện tượng tích cực và tiêu cực trong đời sống xã hội...
Những ý kiến rộng rãi ấy thật sự đã được chuyển tải vào Nghị quyết của Đảng,
chính sách và pháp luật của Nhà nước. Bộ máy Nhà nước đã từng bước chuyển đổi
cơ chế điều hành các lĩnh vực của đời sống xã hội thông qua cuộc cải cách lớn hệ
thống các thể chế, trước hết là thể chế kinh tế. Các cơ quan lập pháp, hành
pháp, tư pháp được điều chỉnh một bước đáng kể, phát huy cao độ dân chủ, giải
phóng các năng lực sản xuất, các tiềm năng của đất nước. Hệ thống chính sách đã
từng bước thực hiện dân chủ hoá mọi mặt đời sống góp phần phát huy sự chủ động,
tính tích cực chính trị của nhân dân trên cơ sở môi trường tâm lý xã hội lành mạnh.
Trong khi khẳng
định mạnh mẽ và kiên định chế độ dân chủ do một Đảng Cộng sản cầm quyền, Đảng
ta không bao giờ quên lời di huấn của V.I Lênin về các nguy cơ của một đảng cầm
quyền, trong đó sâu xa nhất là nguy cơ chuyên quyền độc đoán, mất dân chủ, vi
phạm quyền làm chủ chân chính của nhân dân. Chúng ta cũng không phủ nhận rằng
tình trạng vi phạm dân chủ, hay dân chủ hình thức còn diễn ra ở không ít nơi.
Tuy nhiên, tình trạng đó không bắt nguồn từ bản chất của nền dân chủ XHCN, từ
chế độ một đảng cầm quyền, mà trước hết do sự suy thoái về phẩm chất đạo đức của
một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức và những sơ hở, thiếu đồng bộ của cơ
chế, chính sách cùng những khiếm khuyết trong phương thức lãnh đạo. Những khuyết
điểm đó đã đi ngược lại bản chất của chế độ XHCN mà ở đó mọi quyền lực thuộc về
nhân dân; trái với bản chất của Đảng Cộng sản mà theo đó mọi hoạt động không nằm
ngoài lợi ích của nhân dân, của dân tộc. Trong những năm qua, Đảng ta đã chủ động
và tích cực áp dụng nhiều chủ trương, chính sách, biện pháp nhằm phát huy dân
chủ rộng rãi trong điều kiện đảng duy nhất cầm quyền, động viên toàn dân đẩy mạnh
công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh.
Nổi bật nhất là
sự tôn trọng đầy đủ quyền và năng lực làm chủ của nhân dân vừa thông qua bộ máy
Nhà nước của dân, do dân và vì dân; vừa phát huy cao độ vai trò của mặt trận với
tính cách là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, là tổ chức chính trị -
xã hội rộng lớn, tham gia đắc lực vào việc xây dựng, tuyên truyền và vận động
nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước,
tham gia xây dựng Đảng, thực hiện sự giám sát của nhân dân đối với hoạt động và
đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, công chức Nhà nước và các cơ quan Nhà
nước. Dân chủ, tập trung dân chủ trong Đảng gắn chặt với dân chủ, tập trung dân
chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước; dân chủ, nguyên tắc tập
trung dân chủ trong Đảng phải gắn với dân chủ, nguyên tắc hiệp thương dân chủ
trong hệ thống Mặt trận. Thực tiễn cho thấy, trong điều kiện một đảng cộng sản
cầm quyền, nếu kết hợp tốt giữa thực hiện dân chủ, nguyên tắc tập trung dân chủ
trong đảng với thực hiện nguyên tắc hiệp thương dân chủ trong hệ thống Mặt trận
thì sẽ làm phong phú thêm sinh hoạt dân chủ trong xã hội, làm phong phú thêm nền
dân chủ ở nước ta như Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (khoá IX) đã khẳng
định.
Nguyên tắc hiệp thương dân chủ trong tổ chức
và hoạt động của Mặt trận đã được đảm bảo có hiệu quả. Nhờ vậy, Mặt trận đã thực
hiện thành công vai trò tuyên truyền, vận động sâu rộng các tầng lớp nhân dân
hoàn thành thắng lợi đường lối của Đảng; đồng thời trở thành lực lượng phản biện
xã hội góp phần đắc lực khắc phục nguy cơ quan liêu, chủ quan trong việc hình
thành đường lối, chủ trương của các cấp bộ đảng. Trong nhiều năm qua, không chỉ
đông đảo đảng viên, mà toàn thể công dân Việt Nam thuộc mọi thành phần xã hội
đã được nghiên cứu, thảo luận, góp ý các văn kiện quan trọng của Đảng, kể cả
Báo cáo Chính trị trình Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng. Rất nhiều ý kiến
đóng góp của nhân dân thông qua kênh Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã được đưa vào
văn kiện chính thức của Đảng. Một sự khảo nghiệm, phản biện và đóng góp trí tuệ
rộng rãi, cầu thị và dân chủ như vậy đã được Đảng Cộng sản Việt Nam tiến hành.
Điều tương tự chưa từng diễn ra ở bất cứ nơi nào khác. Các đảng tư sản và thiết
chế dân chủ tư sản, trong lịch sử hàng trăm năm của mình, càng chưa bao giờ làm
được như vậy.
Viện Phát triển
quốc tế thuộc Trường Đại học Harvard (Hoa Kỳ) và Cơ quan Phát triển quốc tế Thụy
Điển (SIDA) phối hợp tiến hành một công trình nghiên cứu về Đông Dương. Liên
quan đến nền dân chủ ở Việt Nam, các tác giả viết: “So với các chế độ cộng sản
cùng đang cải cách khác, Việt Nam có được những lợi thế chính trị quan trọng. Đảng
Cộng sản Việt Nam đứng đầu một hệ thống chính trị nhất thể với một quyền lực và
tính hợp pháp không bị ai thách thức. Ban lãnh đạo của Đảng nằm trong số ổn định
và thật sự nhất trí trong thế giới cộng sản, và đảng viên của Đảng bao gồm một
phần lớn những người tận tụy và yêu nước nhất ở Việt Nam. Hơn nữa, đó là một Đảng
mà sự tồn vong và thắng lợi cuối cùng đã dựa vào việc huy động sự ủng hộ của quần
chúng và Đảng đã có được sự chấp nhận rộng rãi của quần chúng. ở Việt Nam,
trong tương lai khó có thể hình dung cơ sở xã hội cho việc xây dựng một đảng có
khả năng cạnh tranh với Đảng Cộng sản Việt Nam. Hơn nữa, Đảng phải tăng cường hệ
thống một đảng không chỉ vì lý do tư tưởng mà còn hầu hết đảng viên đều tin rằng
đường lối chính trị cạnh tranh sẽ làm trầm trọng thêm những chia rẽ giữa các
vùng và làm mất ổn định chính trị”.
Rõ ràng, Đảng Cộng
sản Việt Nam đã vượt qua những thử thách của lịch sử, gắn bó máu thịt với nhân
dân, luôn luôn biết tự đổi mới, chứ không phải một lực lượng nào khác có thể đề
ra đường lối đáp ứng yêu cầu lịch sử, nguyện vọng và lợi ích của nhân dân, phù
hợp với quy luật khách quan của sự phát triển trong xã hội ngày nay. Một Đảng
như thế đủ sức đảm đương vai trò là lãnh tụ chính trị của xã hội, của dân chủ
mà không cần có một lực lượng đối lập nào.
Đăng trên Tạp chí Quốc phòng toàn dân 01/12/2011
1- Robert
A.Hêinman: American Government, Mc Graw Hill, Inc 1995, p.111.