I - LƯỢC THUẬT QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH ĐỊA BÀN VÀ CƯ DÂN
Nhìn một cách khái quát,
lịch sử
bất kỳ vùng đất nào của dân tộc từ
Thanh Nghệ
trở vào
Nam trong những
thế kỷ đầu tiên
cho đến thế kỷ XIII, XIV đều không được ghi chép
đầy đủ. Hơn
một nửa
đất nước với
thời gian
trên bảy thế kỷ, lại cũng
chỉ được miêu tả ít ỏi qua các tư
liệu thời phong
kiến. Tuy
vậy, nổi
lên trong quá trình
xác định địa bàn và cư dân vùng Trung bộ và Nam bộ, các bộ sách Dư địa chỉ của
Nguyễn Trãi, Ô Châu cận lục của Dương Văn An và Phủ biên tạp
lục của Lê Quý Đôn đã có
những cống hiến
đặc biệt về lịch
sử cư dân Trung,
Nam bộ nói chung và Thuận Hóa nói
riêng.
1. Địa bàn, danh xưng Hương Thủy:
Hai huyện Kim
Trà, Tư
Vinh trong thời Lê thuộc phủ Triệu
Phong. Huyện
Kim Trà chính là các
huyện Xạ Linh, Bồ Đài, Bồ Lâng
thuộc châu Hóa, phủ
Thuận Hóa
thời Minh thuộc.
Huyện Tư Vinh chính là các huyện
Lợi Bồng, Tư
Dung, Thế Vinh thuộc
châu Hóa đời Trần. Đầu thời Nguyễn, Kim
Trà được gọi
là Hương Trà, Tư
Vinh được
gọi là Phú
Vinh (tên quen
gọi Phú Vang). Năm
Minh Mạng thứ 16
(1835), nhà vua cho cắt ba tổng của huyện Hương
Trà cho ba huyện
Hương Thủy, Phú Lộc, Phong Điền và cắt sáu tổng
của huyện Phú
Vang cho hai
huyện Hương Thủy
và Phú Lộc. Địa bàn Hương Thủy là địa bàn góp lại
từ các phần đất cắt gần gũi nhau từ hai
huyện Hương
Trà và Phú
Vang vừa
nói.
Như vậy, đến lúc
ấy thì các làng xã đều đã ổn định và cơ bản ít có thay
đổi gì lớn. Việc lập làng hầu như đã chấm
dứt.
Hương Thủy là tên gọi muộn nhất, cuối cùng
của thời đại phong kiến dành cho vùng đất là huyện nhà ngày nay. Đó là tên
gọi bình thường mà trang trọng của một huyện ở mạn
nam sông Hương.
Nước sông Hương như cái
gốc căn bản làm
nên mùa màng cho những cánh đồng huyện. Với tình cảm
sâu xa, đằm thắm, vua Minh Mạng
và cả
vương triều Nguyễn
trong cảm
xúc êm thấm
của mình, như muốn
làm cho cái
tên gọi
ấy thân
mật, êm đềm. Hương Thủy là huyện sông
Hương - huyện
“Nước Thơm”.
Danh xưng và thực
chất con nước đã làm nên đồng lúa nương khoai.
Bình dị và cũng
không kém phần thanh lịch.
2. Sự hình thành cư dân -
hòa huyết, thiên cư:
Vào thời điểm hiện tại, việc nghiên cứu,
khảo tả cư
dân một vùng, miền, làng, xứ nào của
Thừa Thiên Huế đều gặp phải
những trở ngại. Trước hết là cái chiều sâu
của quá khứ thăm thẳm.
Những tầng bậc của
nó lại
chỉ là một cửa mở,
những gợi ý hơn
là một lối đi,
một con đường dẫn
đến hiện thực lịch sử trong quá khứ. Trên nền cư dân
hiện tại, sự lần
tìm về quá khứ của bất kỳ
nhóm dân nào,
người ta cũng chỉ
gặp từ
mươi lăm đến trên hai mươi đời. Và
như thế, vị
tổ của
nhóm dân ấy lại
là một người
Việt thuần tuý. Điều đó
dường như đã phủ
định hết thảy những cội nguồn xa (giữa các
chủng tộc)
và cội nguồn gần
(giữa các vùng, miền, khu vực) [1]
Lần tìm trong thư tịch cổ
về cứ liệu
lịch sử minh
chứng sự tồn tại của chủng
tộc cư
dân,
thì người ta
chỉ tiếp xúc được
với những giả thiết mang tính mặc định lịch sử.
Chẳng hạn,
khảo cổ học đã từng
chứng minh vùng Thuận Hóa xưa có những khảo
cổ vật nói lên sự
tồn tại
của nền văn hóa
Sa Huỳnh và văn hóa Đông Sơn. Chủ
nhân của hai
nền văn hóa ấy
là người Việt cổ, có ngôn ngữ thuộc ngữ
hệ Nam
Á (Austro Asiatic)
và người Chăm cổ thuộc ngữ hệ Nam
Đảo (Austronesian).
Suốt một thời kỳ kéo dài từ thế kỷ
thứ III đến năm
1306, Thuận
Hóa nói chung và Hương Thủy nói riêng là vùng đất
cư, trú
của cư dân Chăm.
Sau đó, qua
các triều
Trần, Hồ, Lê, Nguyễn, cư dân Việt
từ miền Bắc
mới dần dần nhập
cư. Tình trạng ấy đã làm cho địa bàn Thuận Hóa buổi
đầu xuất
hiện một sự
cộng cư Việt Chăm. Năm
1553, Dương Văn
An có viết: “Nói tiếng Chiêm thì có
thổ dân làng La Giang,
mặc áo
Chiêm thì con gái làng Thủy Bạn”, “Có nơi tiếng Huế
quần Chiêm, thói càng bỉ ổi”[2]
Sau năm 1307, do mối quan hệ Việt -
Chăm trở thành thông
gia, hai châu Ô
và Rí được đổi tên thành Thuận Hóa, tạo ra một
tâm thế mới
bình ổn cho người
dân di cư. Có thể lúc đó cũng đã có thêm những
đợt dân
di cư. Nhưng
trong thế kỷ
XIV, sau đợt chinh
thú của
nhà Trần hoặc bổ
sung lực lượng quân đội biên viên, số người
di cư chắc
chắn được tăng lên.
Cuối thế kỷ XIV và đầu thế
kỷ XV, khi nhà Hồ
giành quyền cai trị, những người
trong hàng ngũ quan lại và quý tộc nhà Trần
đã bất
mãn với nhà
Hồ, một số lánh vào Thuận Hóa. Việc
mở đường của
nhà Hồ vào
Thuận Hóa cũng là
điều kiện cho việc
di dân từ Thanh Nghệ vào. Chiến
tranh giữa nhà Minh
và Đại Việt cũng làm cho tình hình phía Bắc
thêm lộn xộn, có
thể đã làm cho một số dân chúng di
cư vào Thuận
Hóa. Còn
khi nhà Minh sắp
xếp lại châu Thuận, châu Hóa thành châu Thuận Hóa,
số người của hai
châu lúc đó chưa đầy 6 nghìn người. Riêng Hóa châu thì lại
càng ít
hơn. Dân
số toàn vùng Quảng
Trị, Thừa Thiên lúc ấy chỉ bằng dân số một xã bây giờ.
Cuộc kháng Minh thắng
lợi, đội quân tiến
về Hóa châu của vua Lê đã thu
được vùng đất
này.
Nhà vua
đã chia
lại hai lộ
Tân Bình, Thuận
Hóa y như đời Trần. Chính sách đặc biệt của nghĩa quân Lam Sơn và nhà Lê
đã thu hút hầu hết cư dân tin tưởng vào sự
yên bình của Thuận
Hóa. Đó cũng là điều kiện tối cần cho một cuộc nhập cư của những người ở các vùng Thanh
Nghệ. Trong một trích bản Lam Sơn thực lục,
đã có
một lời nhận định tế nhị về chính sách
của vua Lê và nghĩa quân.
Sự mềm dẻo trong
giáo hóa đã tạo
khắc niềm tin cho người nhập cư:
Sơ
lại Hóa châu,
Vu lí vụ cương.
Chính hóa đại hành,
Uy danh viễn dương.[3]
(Lúc mới đến Hóa
châu,
Ở theo lẽ phải, ở
theo vùng đất.
Thi hành nền giáo
hóa, chính
trị rộng rãi,
Tiếng tăm,
uy thế (của nghĩa
quân) lan xa).
Sau mấy chục
năm xung
đột, cuộc
chinh Nam của Lê
Thánh Tông hoàn
thành. Đầu xuân
năm 1471, nhà vua đã đóng quân ở Hóa châu. Theo Trần
Đại Vinh, một
số làng tại
Thừa Thiên-Huế được thành lập sau
chiến thắng của Lê Thánh Tông, trong đó, có làng
Lang Xá,
Dã Lê, An
Cựu, Dương Xuân, Vĩ
Dạ...[4]
Từ thế kỷ
thứ XVI, vào
những năm
20, những biến động
chính trị,
quân sự
và việc cướp ngôi của Mạc Đăng Dung làm thành những biến
động lớn; một số
dòng họ,
gia đình đã rời
quê hương, di cư vào Thuận
Hóa. Đất
nước trải
qua một thời phân
tranh Lê Mạc.
Đến khi Nguyễn Kim
khôi phục được triều
Lê, tình hình Bắc
Trung bộ tạm yên, Thuận Hóa cũng tạm yên.
Năm 1558,
Nguyễn Hoàng
vào trấn thủ Thuận Hóa, đem theo một nghìn quân lính
thuộc hạ,
phần lớn là đồng
hương huyện Tống Sơn và một số huyện khác thuộc xứ Thanh
Hoa. Hầu như phần đông
số quân lính này đã lập cư và xây dựng gia đình tại Thuận Hóa. Một
số tộc
họ định cư ở Thuận Hóa
như Trương Phúc,
Nguyễn Cửu, Tống Phước, Nguyễn Khoa... đã
nhập tịch các làng
Nham Biều, Văn Dương, Vĩ Dạ...
Đến năm 1600,
để thoát khỏi
ý đồ hung hiểm
của thế lực nhà
Trịnh và người anh
rể, Nguyễn Hoàng lại xin
đi trấn
Thuận Hóa và được chấp thuận. Lần này,
ông không trở ra
nữa, nên đã đem
theo tướng sĩ, binh lính rất đông,
theo đường biển
mà vào Thuận
Hóa. Có
thể những người
bà con thân thích
của một
nghìn quân lính
trước đây (1558) cũng đã đi theo. Cuộc
ra đi lớn này đã tạo nên một luồng di dân, bổ sung cho
dân cư
Thuận Hóa, tạo
ra những làng mới
ở vùng đầm phá, vùng ven biển và
những vùng hoang
chưa được khai phá. Một số làng hiện nay ở
các vùng biển thuộc các xã Điền Hải, Quảng Công...
có một số hộ
tộc mà gia
phả cho rằng thủy
tổ của họ đã theo quân tướng của
chúa Nguyễn
Hoàng từ biển đi
vào. Vị tiền khai khẩn Lê
Trại của
làng Phù Bài,
theo Chúc từ của
tộc Lê, cũng
“theo
tiên chúa trốn
về Thuận Hóa”[5]
Trong một khoảng
thời gian thật tốt
đẹp,
từ 1558
đến 1613, với
chính sách thu
phục dân tâm,
giảm nhẹ thuế khóa,
Nguyễn Hoàng đã
làm cho đời sống nhân dân ở Thuận Hóa trở nên yên vui, no
ấm. Khung cảnh
này quả đã có
sức hấp dẫn đối với người ở miền Bắc
muốn đến nhập cư: “Đời
chúa Tiên, Thuận
Quảng nhiều
năm được mùa. Năm Kỷ Sửu (1589), Thực lục tiền biển
chép: “Mấy
năm được mùa,
trăm họ giàu
thịnh”. Năm Mậu
Thân (1608), được mùa to,
mỗi đấu gạo giá
ba đồng tiền,
bấy giờ
từ Nghệ An ra bắc bị đại hạn, giá gạo đắt, nhiều dân
xiêu dạt chạy
vào Thuận Hóa”[6].
Trước khi xảy ra tương tranh Trịnh Nguyễn,
do các quan hệ gắn bó về cội nguồn
huyết thống của
cư dân mà thường có những cuộc
di cư lẻ tẻ tiếp sau. Trong thời gian giao
tranh Trịnh
Nguyễn, có những
lần quân Nguyễn lấn ra, vượt cả
ranh giới, những lần quân Trịnh
đánh vào chiếm được
Thuận Hóa trên mười
năm. Năm 1660, sau 5 năm đóng quân, quân Nguyễn rút
về nam Bố Chính,
phần lớn quân dân làng xã ở
vùng Nguyễn đóng quân đã về theo. Năm
1786, ba vạn
quân Trịnh tan
rã trong
chiến dịch Phú Xuân
Thăng Long của Nguyễn Huệ. Bằng chính sách
vỗ về của triều Tây Sơn, những người lính Trịnh đã ở lại, hoặc
trốn tránh và trở
thành cư dân Thuận Hóa. Trong thời Tây Sơn, do nhà vua
đóng đô ở
Phú Xuân mà một số ít thân thích trong
hoàng tộc, quan lại và
lính tráng đã quy
tụ về Phú Xuân.
Khi Nguyễn Ánh lên ngôi và nhất là khi
triều Nguyễn được
thịnh trị, những con dân gốc miền Nam
đã chuyển cư đến
Phú Xuân, tạo ra những thân tộc, làng ấp
mới.
Đến đầu thế
kỷ XIX, việc thành
lập làng xã ở Thuận Hóa, trên đại thể, đã
ổn định. Tuy thế,
vẫn còn một vài sự chuyển đổi nhỏ trong phạm vi giữa các
tỉnh, các huyện
trong tỉnh, các
tổng trong huyện
do các quan hệ thông gia, thân tộc và quan hệ gia
đình[7].
Quá trình di
dân và thành lập
làng xã của huyện Hương Thủy
chính là quá trình
di dân và thành
lập vùng đất Thuận Hóa chỉ có khác
là, đầu
thế kỷ XIX trở đi, việc di dân này mang tính nhỏ hẹp hơn, dân
cư chỉ
di chuyển nhỏ, từ
làng đến làng,
trong phạm
vi tổng, huyện.
Nhưng dù là thế nào, thì
miền đồng bằng,
miền đầm phá, là hai nơi được người dân đến sớm
nhất, do
sự thuận lợi ít
nhiều về nông và
ngư nghiệp. Đường
đi lúc ấy giờ cũng
rất khó khăn. Đường thủy, chủ
yếu là đường
sông, thuận lợi
hơn so với
đường bộ, vì đường bộ phải qua nhiều núi
cao, rừng rậm.
Rồi nữa, cuộc sinh
tụ nào cũng gắn với điều kiện
sống. Hạt lúa, củ
khoai, ngọn rau,
con cá... cho đến những gia súc quen thuộc, đều dễ nuôi trồng, tìm
bắt ở hai vùng ấy
hơn. Quá trình khẩn
canh của Hương Thủy cho đến thế
kỷ XVIII vẫn chưa đưa
được người dân định cư lên ở
núi,
vì lẽ ngày ấy đất
còn rộng, người còn thưa và núi rừng
còn quá hoang
vu, hiểm trở. Điều
này đã được Lê Quý Đôn xác nhận trong sách Phủ
biên tạp lục, viết
năm 1776.
Ông cho
biết tình hình cư dân ở phía đầu nguồn và phía
trên nguồn sông
Hương như
sau: “Từ Tả
Trạch nguyên
đi ngang
qua các sách An Ninh, Kim Ngọc, Phường
Hà, Dương Lăng có nhiều binh
dân ở, từ
sách này đi lên đều là núi rừng
cả; từ Hữu Trạch nguyên đi qua An Phường đến sách
Phong Mộc trở lên đều là núi rừng, đi luôn nửa ngày, đến sách
Lang Xí,
từ đó
đi lên, núi khe lộn xộn, không có dân cư. [8]
Đến thời Minh Mạng,
vâng chỉ dụ của vua, một
viên quan
giám thành đã đến
đo đạc, phát hiện hơn mười địa điểm có thể đưa
dân đến
ở và canh tác. Vì
thế, nhà vua
có truyền chỉ
cho quan kinh
doãn thuê người khai khẩn đất ấy. Sau
một thời gian khó nhọc khá lâu, mới
khẩn được hơn
một trăm
bốn mươi mẫu đất.
Phần lớn dân đi
khẩn đều là
tù nhân từ
các tỉnh Thừa Thiên,
Quảng Trị, Quảng Bình, Quảng
Nam, Quảng Ngãi vì
bị tội mà phải đến đây lập đồn điền. Họ
đều là binh lính.[9]
Thực tế lịch
sử ấy chứng minh rằng,
trên địa bàn Hương Thủy cho đến nay, bức
tranh di dân và
lập làng chưa thể
phác họa một cách chi
tiết. Ta
chỉ có thể
thấy trên cái nền
lổ để cư dân Chăm,
cộng đồng
người Việt
cổ đã sống cộng cư một thời
gian khá
dài; rồi sau
đó, qua
quá trình lịch sử
nhiều xung đột mới
có một số làng
ra đời. Càng về sau,
khi số dân đã đông dần, quá
trình canh tác đã mở rộng địa bàn trong từng làng xã, tạo
ra những xóm mới chòm mới, ấp
phường mới. Đó là lý
do khiến cho địa bàn
làng xã
hiện nay đan xen
nhau. Hình thế một làng như thế nào không phải là
do đất ở, dân cư,
mà do khoảng ruộng
làng đó canh tác nhiều hay ít, gần hay xa và tọa lạc ở đâu.
Thực ra, để hiểu rõ thêm về địa bàn Thuận Hóa và Hương
Thủy, cũng cần dẫn
thêm nhiều dữ liệu về tình trạng xáo trộn
của các
thời kỳ đặc biệt. Chẳng hạn, thời điểm tháng 11 năm 1774: “Lúc bấy
giờ,
quân binh và nhân
dân đang ở lẫn lộn với nhau. Các tì tướng và quân hiệu
thì ỷ
lại thế lực, họ
lấy trộm các vật liệu và triệt hạ những chốn quân phòng cũ
để làm những đồn
mới. Họ lại còn chuyên quyền, bắt bớ, giam cầm và khám xét những người khác nữa”[10]. Và thời đó, cũng có
những tình trạng mù mờ về dân đinh,
về đất ở cũng như đất
canh tác: “Số nhân đinh cũng như số điền
địa trong trấn này từ lâu nay chưa từng được kê khai
và phân
loại rõ ràng”[11]
II - NHỮNG XỨ ĐẤT, TÊN ĐẤT, TÊN LÀNG...
Đi tìm xứ
đất, tên gọi của bất kỳ vùng, miền, làng xóm
nào của Hương Thủy xưa, ta đều gặp những cứ
liệu ít ỏi và khó
xác minh. Số liệu chỉ nói lên
đôi điều khái
quát về vùng
đất, thiếu tính chất miêu tả cụ
thể,
chính xác. Theo
Minh chí, khi
nhà Minh thiết
lập phủ Tân
Bình, Thuận
Hóa, thì
phủ Thuận
Hóa có
79 xã, 1407 hộ và 3663 nhân khẩu.
Phủ Thuận Hóa gồm
2 châu và 11 huyện,
trong đó, Hóa châu
gồm 7 huyện:
Trà Kệ, Lợi Bồng,
Sa Lệnh, Tư Dưng, Bồ Đài, Bồ Lãng và Sĩ
Vinh. Cả phủ Thuận Hóa được
72 khoảnh ruộng, thuế
đóng lương là 273
thạch, 2 đấu, 9 thăng và
9 hộp.
Thời Lê Thánh Tông, năm 1469, nhà vua định lại xứ Thuận
Hóa gồm 2
phủ, 7
huyện, 4
châu[12].
Năm 1773, 9 huyện châu
trong xứ Thuận Hóa,
có 862 xã, thôn, phường; nhân số
tổng cộng là 128857
người. Song tổng số ruộng đất
thực canh
chỉ có 158181 mẫu.
Thời Lê
Quý Đôn phụ trách việc
“vỗ về biên
cương”, ông cho
biết “Các bộ tịch về thuế khóa đều bị mối
mọt ăn hết, nay
không biết khảo cứu vào đâu nữa”.
Tính ra, từ năm
1669 đến
năm 1770, sau 102 năm, các giấy tờ bộ
tịch đã bị
mối mọt
phá hủy rách nát. Đến tháng 3 năm
1770, họ Nguyễn mới có chỉ dụ cho các quan
ở huyện biên
soạn về ruộng đất
các xã
và ruộng
khoảnh các họ.
Những ghi chép về các huyện có
quan hệ với Hương
Thủy sau này, cho biết những dữ liệu sau:
- Huyện Hương Trà gồm 10
tổng, 222 xã, thôn, phường và tộc bức, quy làm 8
tập.
- Huyện Phú Vang
gồm 6 tổng, 137 xã, thôn, phường và tộc
bức, quy
làm 15
tập. [13]
Tộc bức là các miếng đất, vùng đất canh tác của
từng họ
tộc, có
ý nghĩa
riêng biệt như những đơn vị đứng bên cạnh xã,
thôn,
phường...
Các tộc bức về sau sẽ là những xứ
đất cấy cày quen
thuộc có thể được lưu truyền theo kinh nghiệm
canh tác và
theo huyết thống.
Chậm lắm thì từ thế kỷ XVI các tộc
bức đã ra đời và
tồn tại cho hết thời phong kiến.
Nó chỉ là đất thổ
canh, song vì có quan hệ đến người canh tác cụ
thể mà nó trở thành
những đơn vị
nhỏ (có
lẽ nhỏ hơn thôn,
xã), được tính
đến, kể đến bên
cạnh các đơn vị
hành chính.
Ô châu cận lục và Phủ biên tạp lục là những sách đã
ghi đến tên một
số huyện, tổng, xã của Thuận Hóa. Trong
số 60
xã của huyện Kim Trà
và 67 xã của huyện Tư Vinh được
ghi trong
châu cận lục
năm 1553, có những tên xã
sau đây đáng
chú ý,
vì khi thành lập huyện Hương Thủy năm 1835, một số xã
đã được
cắt sang: Ba Lăng, Kế Chủng, Thủy
Hấn (Thủy Bạn?),
Nguyệt Biều, Kim Ngọc, Dương
Hòa, Vĩ Dạ, Kế
Môn, Bổn
Phổ, Cư
Hóa, Vũ
Thuật (Vũ Vệ?), Thanh Lam, Mộc Hãn, Dã Lê, Lê Xá, Đông Hồ,
Văn Sát, Lương Văn, Phù
Bài, Dương Xuân,
Đường Bi, Chiết Bi, An Lưu, Phấn Vũ, Công Minh (Công Lương?), Vân
Thê, Ôn Tuyền,
Lang Xá,
Nâng Hà...
Khảo sát tên
xứ đất xưa của
huyện Hương Thủy,
người ta dễ nhận ra tính chất địa
lý cụ thể và nhỏ
hẹp của xứ đất. Một người, một tộc (khi
mới đến cũng
chỉ có
vài người) đến ở
vùng đất nào trong buổi đầu, thường gọi
tên vùng
đất để ghi nhớ nơi
canh tác. Khi vùng đất đã trở thành sở
hữu và họ
có ý thức về sở hữu, họ
lại càng hay gọi
tên, nhắc nhở,
lưu truyền tên xứ
đất. Do
mục đích thừa
kế, gìn giữ
và bảo
trì phần mồ hôi
nước mắt khẩn
canh, người tạo ra xứ đất không thể nào không lưu truyền tên đất cho con
cháu mình.
Chính vì
vậy mà
cái tên xứ
đất nhiều lúc lại rõ
ràng và phong phú
hơn cái tên hành chính. Tên
xứ đất dù nhỏ vẫn
mang đầy kỷ niệm khẩn canh. Cái
tên ấy có
thể là cách định
nghĩa, định danh cho thửa đất, hoặc
nhắc nhở lại những người trước đây đã
từng ở và từng cày cấy ở đất ấy: xứ
Ông..., xứ
Bà...,
xứ Mụ,
xứ Cha..., xứ Nường... Có
khi tùy theo vị
trí tọa lạc, tính
chất xứ đất mà gọi
tên là xứ
Cồn..., xứ
Bàu..., xứ Lùm...,
xứ Chùa...
nếu đất tiếp giáp,
gần kề sông, gò, đồi, suối, núi non tên gì
thì cũng có thể
được gọi theo tên sông, gò, đồi suối
ấy: xứ gò, xứ đôộng..., xứ lâm
lộc...,
xứ kênh...,
xứ hạ kênh..., xứ
thượng kênh... Cách
gọi tên vì thế mà phong phú và phức
tạp thêm. Song sông núi, gò đồi cũng
là cái có giới
hạn, do đó
mà sự
phong phú,
phức tạp
này lại
gặp nhau ở một
số nơi. Khi
dân nhập cư sinh
tụ đã lâu, người đã đông, làng xã
đã phát triển, có những tộc họ danh
tiếng phía
trước, vùng đất đã có đình chùa miếu vũ,
chợ búa; thì
người dân lại theo
đó mà gọi tên xứ đất: xứ tộc., xứ
chùa..., xứ chợ..., xứ
đình...
Và cách gọi
tên ấy được duy trì, lưu giữ gần như giống nhau ở
suốt dải đất
miền Trung, tính từ Thanh Nghệ đến Quảng Ngãi
chứ không riêng vùng
đất nào. Vì
thế, sẽ rất trùng
lặp nếu ta liệt kê tên xứ đất của một huyện.
Những xứ đất
ấy là những miếng đất, khoảnh ruộng, cánh đồng không rộng lắm và chúng mang
những tính chất
địa lý, địa chất
cụ thể. Chúng chỉ có từ mươi thước,
vài sào hoặc lên
đến mươi mẫu,
chỉ được biết trong
phạm vi
dân làng hoặc một
số làng lân cận. Chúng tồn tại trong
trí nhớ dân làng; qua một số lần lập địa
bạ trong lịch
sử, chúng được ghi
vào sổ, được xác định tọa độ và tồn tại như một đơn vị
cụ thể, quen
thuộc đối
với từng thế hệ
dân làng.
Trong những đổi thay có tính lịch
sử, ít khi thấy những
xứ đất ấy biến thành làng và tên xứ
đất được lấy làm tên làng. Có thể trong sâu thẳm quá khứ,
những xứ đất mà
cái tên rất
khó cắt
nghĩa bị
mất dần đi,
không tồn tại cả
trong trí nhớ, cũng
như trong văn
bản,
chữ viết. Đó là
lúc những tên mới
ra đời. Chẳng hạn
trước đó, xứ
đất ấy đã có tên nhưng sau đó biến thành đất nghĩa địa, hoặc
đất chùa,
thì xứ đất ấy dễ
mang tên là xứ
mộ địa,
xứ tam
bảo. Cái tên trước
dần dần bị quên đi.
Từ thời Trịnh - Nguyễn phân tranh đến năm
1811, triều Gia
Long đã có nhiều
thời có địa bạ ra đời, song số
địa bạ còn lại đến
nay cũng thật ít ỏi, hiếm hoi, nên tên những
xứ đất từ
thời xa xưa của huyện đã bị mất mát nhiều. Số tên
được khôi phục trong địa bạ từ thời
Gia Long trở
đi chắc không nhiều lắm. Mà có thể từ đây đã có những tên
xứ đất mới do quá trình canh tác tạo ra. Có
điều,
do hệ tên Nôm
chiếm một tỷ lệ
lớn trong tên
xứ đất, khiến người
sau có thể cho rằng những tên ấy
là rất cổ xưa. Chúng gắn
với lịch sử, con
người của vùng đất và đưa
ra những gợi
ý sâu xa
về những điều ấy.
Để biết một vùng dân cư của
huyện trong phạm
vi diện tích gần
mười cây số vuông, không gì bằng lưu ý đến khối lượng lớn tên
các xứ đất: xứ Cây Sanh, xứ Ông Lạng, xứ
Cồn Dùng, xứ
Ông Mưa, xứ Ông Trong, xứ Khe Chứa, xứ Ông
Táy, xứ Mu Du, xứ
Cây Na, xứ
Ông Cờ, xứ
Ông Bái, xứ
Bàu Sê, xứ
Trung Kiều, xứ
Bàu Trai, xứ Cửa Dương, xứ Cồn Hồi, xứ
Bàu Đưng, xứ
Nạp Nưa,
xứ Cồn Sim, xứ Lùng Khoay,
xứ Ngã Ba Lùm Lúi,
xứ Trường Thọ, xứ
Động Đình, xứ Cát Bú, xứ Sư Lỗ, xứ
Trằm Sỉ, xứ Trầm
Lỡ Dở, xứ
Ông Bông, xứ
Ông Tự, xứ
Bàu Chùa,
xứ Lòi Chùa, xứ Bàu Quánh, xứ
Bàu Năn, xứ Ông
Cày, xứ
Bến Lội, xứ Ngã
Ba Lòi Lậm, xứ
mộ địa Ông
Cống, xứ Khe
Chùa,
xứ Ông Bảng,
xứ gò trung Bàu Sen, xứ Nhà Đương, xứ Ông
Hề, xứ Bàu Tròn, xứ Đá Bạc, xứ
thượng Bàu Sen,
xứ Hốc
Háp, xứ Đạc Lỗ,
xứ Ông Cáp, xứ Lùng Miếu, xứ
Đông Biên Cửa
Cháng, xứ Hốc Ông
Chỉ, xứ Cồn Mộng, xứ Điền Điển, xứ
Cồn Sim Thợ
Bạc,...
Những tên xứ đất ấy nay chỉ
còn nằm trong
văn bản và tản mác trong trí nhớ của
các vị
lão nông.
Một vài cái
tên cũng
đã sai chạy do cách phát âm, giọng
tiếng của người
địa phương, nên thực khó có sự thống
nhất hoàn toàn giữa
văn bản và cách gọi. Thời gian miên viễn trôi qua,
thì sự cách biệt
càng trở nên rõ ràng. Và vì thế, việc giải
thích tên một xứ
đất,
một làng càng trở nên khó
hơn.
Nguồn: Địa chí Hương Thủy. Nxb Thuận Hóa năm 1999 Trang 349 - 361
[1]. Điều này, dựa trên cơ sở tư liệu điền dã của người
viết. Tình hình ấy cho thấy những gia phả trong các thế kỷ XIII, XIV, XV đã mất
mát gần hết.
[2]. Dương Văn An, Ô châu cận lục, bản dịch của Bùi
Lương, Văn hóa Á châu xuất bản, Sài Gòn, 1961, tr. 44 - 45.
[3]. Tham khảo một trích bản Lam Sơn thực lục được giữ ở
Huế. Tư liệu điền dã của người viết.
[4]. Tham khảo: Trần Đại Vinh, Tín ngưỡng dân gian Huế,
Nxb Thuận Hóa, 1995, tr. 28 - 29. Ô châu
cận lục ghi lại danh mục làng xã của huyện Kim Trà, Đan Điền, Tư Vinh của châu
Hóa cũ gồm 180 làng. Trong đó, có những tên làng còn tồn tại ở huyện Hương Thủy
bây giờ.
[5]. Tư liệu thuộc di sản Hán Nôm tộc Lê xã Thủy Phù.
[6]. Phan Khoang. Việt sử xứ Đàng Trong, tr. 163.
[7]. Những trường hợp “biệt cư”, hoặc di dời của người
trong thân tộc đến làng xã khác
[8]. Sđd, tr. 200
[9]. Minh mệnh chính yếu, tập 2, Nxb Thuận Hóa, 1994, tr. 75
[10]. Phủ biên tạp lục, Sđd, tập 1, tr. 15, 17, 247, 248
[11]. Phủ biên tạp lục, Sđd, tập 1, tr. 15, 17, 247, 248
[12]. Phủ biên tạp lục, Sđd, tập 1, tr. 15, 17, 247, 248
[13]. Phủ biên tạp lục, Sđd, tập 1, tr. 15, 17, 247, 248