Đề cương tuyên truyền 80 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22/12/1944 - 22/12/2024) và 35 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân (22/12/1989 - 22/12/2024).
1. Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân - tiền thân
của Quân đội nhân dân Việt Nam ra đời, đánh thắng hai trận đầu, cùng Nhân dân
tiến hành Tổng khởi nghĩa giành chính quyền (1944 - 1945)
Ngay từ khi ra đời (3/2/1930), trong Cương lĩnh chính trị đầu
tiên, Đảng ta đã khẳng định con đường đấu tranh giải phóng giai cấp, giải phóng
dân tộc là dùng bạo lực cách mạng để giành chính quyền và yêu cầu phải “Tổ chức
ra quân đội công nông”[1] để làm nòng cốt cho toàn dân tiến hành đấu tranh cách
mạng. Luận cương chính trị của Đảng (tháng 10/1930) xác định nhiệm vụ cốt yếu của
cách mạng tư sản dân quyền, trong đó chỉ rõ phải: “Lập quân đội công nông”[2].
Trong phong trào cách mạng 1930 - 1931, đỉnh cao là Xô viết
Nghệ - Tĩnh, từ lực lượng khởi nghĩa của công nông, Đội tự vệ công nông (Tự vệ
Đỏ) đã ra đời. Đó là tiền đề đầu tiên của lực lượng vũ trang cách mạng Việt
Nam. Tiếp theo đó, hàng loạt tổ chức vũ trang lần lượt được thành lập như: Đội
du kích Bắc Sơn (1940), các đội du kích ở Nam Kỳ (1940), Cứu quốc quân (1941)…
Ngày 22/12/1944, tại khu rừng giữa hai tổng Hoàng Hoa Thám
và Trần Hưng Đạo thuộc châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng (nay là xóm Nà Sang, xã
Tam Kim, huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng), Đội Việt Nam tuyên truyền giải
phóng quân - tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam được thành lập theo Chỉ
thị của Lãnh tụ Hồ Chí Minh. Trong Chỉ thị, Người ghi rõ: “Tên ĐỘI VIỆT NAM
TUYÊN TRUYỀN GIẢI PHÓNG QUÂN nghĩa là chính trị trọng hơn quân sự. Nó là đội
tuyên truyền”[3]; “Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân là đội quân đàn
anh, mong cho chóng có những đội đàn em khác. Tuy lúc đầu quy mô của nó còn nhỏ,
nhưng tiền đồ của nó rất vẻ vang. Nó là khởi điểm của giải phóng quân, nó có thể
đi suốt từ Nam chí Bắc, khắp đất nước Việt Nam”[4]. Đồng chí Võ Nguyên Giáp được
Trung ương Đảng và Lãnh tụ Hồ Chí Minh ủy nhiệm tổ chức, lãnh đạo, chỉ huy,
tuyên bố thành lập Đội, gồm 34 người, biên chế thành 3 tiểu đội do đồng chí
Hoàng Sâm làm Đội trưởng, đồng chí Xích Thắng làm Chính trị viên, có chi bộ Đảng
lãnh đạo. Ngày 22/12/1944 được lấy làm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt
Nam.
Tháng 4/1945, Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ của Đảng đã
quyết định hợp nhất các tổ chức vũ trang cách mạng trên cả nước thành Việt Nam
giải phóng quân. Trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Việt Nam giải phóng quân
đã cùng lực lượng vũ trang các địa phương và Nhân dân tiến hành Tổng khởi nghĩa
giành chính quyền trên toàn quốc. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Việt
Nam giải phóng quân được đổi tên thành Vệ quốc đoàn, rồi Quân đội quốc gia Việt
Nam (1946), từ năm 1950 được gọi là Quân đội nhân dân Việt Nam.
2. Quân đội nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954)
Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta lần thứ hai, dưới sự lãnh
đạo của Đảng, lực lượng vũ trang phát triển mạnh mẽ, cùng Nhân dân ta nhất tề đứng
lên, quyết chiến đấu với quân xâm lược. Cuối năm 1946, theo quyết định của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, cả nước chia thành 12 chiến khu. Lúc này, ở Nam Bộ vẫn tổ chức
các chi đội Vệ quốc đoàn, ở Bắc Bộ và Trung Bộ có 30 trung đoàn và một số tiểu
đoàn thuộc các chiến khu; hệ thống tổ chức đảng trong Quân đội được thành lập từ
Trung ương Quân ủy đến chi bộ.
Đêm 19/12/1946, kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Trong những
ngày đầu toàn quốc kháng chiến, quân và dân ta đã đánh hàng trăm trận, loại khỏi
vòng chiến đấu hàng nghìn tên địch, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của địch.
Mùa xuân năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng và Chính phủ lên Việt
Bắc, nơi đây trở thành trung tâm chỉ đạo kháng chiến của cả nước.
Thu Đông năm 1947, thực dân Pháp huy động hơn một vạn quân
tinh nhuệ có máy bay, tàu chiến hỗ trợ, bất ngờ tiến công lên Việt Bắc nhằm
tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến và bộ đội chủ lực của ta. Sau hơn hai
tháng mở chiến dịch phản công (7/10 - 20/12/1947), ta đã loại khỏi vòng chiến đấu
hơn 7.000 tên địch. Đây là chiến dịch phản công quy mô lớn đầu tiên giành thắng
lợi có ý nghĩa chiến lược của quân và dân ta; đánh bại cuộc tiến công quy mô lớn
và làm phá sản chiến lược “đánh nhanh, thắng nhanh” của thực dân Pháp; bảo toàn
và phát triển bộ đội chủ lực, bảo vệ cơ quan đầu não và căn cứ địa của cả nước.
Từ giữa năm 1949, Bộ Tổng Tư lệnh chủ trương rút các đại đội
độc lập về xây dựng các trung đoàn, đại đoàn chủ lực. Ngày 28/8/1949, Đại đoàn
308 ra đời; ngày 10/3/1950, Đại đoàn 304 được thành lập. Công tác huấn luyện được
đẩy mạnh. Qua các cuộc vận động “luyện quân lập công”, “rèn cán chỉnh quân”
trong các năm 1948, 1949 và đầu năm 1950, lực lượng vũ trang ta không ngừng
phát triển và ngày càng lớn mạnh.
Tháng 6/1950, Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch Biên
giới, chủ động tấn công Pháp. Sau gần một tháng (16/9 - 14/10/1950), ta loại khỏi
vòng chiến đấu hơn 8.000 tên địch, giải phóng khu vực biên giới từ Cao Bằng đến
Đình Lập (Lạng Sơn), căn cứ địa Việt Bắc được mở rộng và củng cố, phá vỡ thế
bao vây, khai thông liên lạc với Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa, kết nối
cách mạng nước ta với cách mạng thế giới. Chiến thắng Biên giới góp phần quan
trọng làm thay đổi cục diện chiến tranh: Ta bước sang giai đoạn chiến lược phản
công và tiến công, quân Pháp chuyển dần sang chiến lược phòng ngự; đồng thời
đánh dấu bước phát triển nhảy vọt về nghệ thuật chiến dịch và sự trưởng thành lớn
mạnh của Quân đội ta.
Sau chiến dịch Biên giới, các đại đoàn chủ lực tiếp tục được
thành lập: Đại đoàn 312 (12/1950), Đại đoàn 320 (1/1951), Đại đoàn công pháo
351 (3/1951), Đại đoàn 316 (5/1951). Trong vòng 6 tháng (12/1950 - 6/1951), ta
đã liên tiếp mở ba chiến dịch mang tên: Trần Hưng Đạo, Hoàng Hoa Thám, Quang
Trung. Đây là những chiến dịch quy mô lớn đầu tiên đánh vào phòng tuyến kiên cố
của địch ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ. Ta đã diệt hơn một vạn tên địch, trong
đó gần một nửa là quân cơ động.
Tháng 11/1951, Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Hoà
Bình; vừa tập trung chủ lực trên mặt trận chính Hoà Bình, vừa đưa một bộ phận
chủ lực vào hoạt động trong vùng địch hậu đồng bằng Bắc Bộ, đẩy mạnh chiến
tranh du kích trong vùng địch tạm chiếm. Chiến dịch diễn ra từ ngày 10/12/1951
đến ngày 25/2/1952; quân và dân ta đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 6.000 tên địch
ở mặt trận Hòa Bình và hơn 15.000 tên địch ở mặt trận địch hậu. Trong chiến dịch
này, bộ đội ta có bước tiến bộ mới về trình độ chiến thuật, kỹ thuật, về khả
năng chiến đấu liên tục dài ngày, về sự phối hợp tác chiến giữa ba thứ quân.
Đầu tháng 9/1952, Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Tây
Bắc. Sau gần hai tháng chiến đấu (14/10 - 10/12/1952), ta đã tiêu diệt và bắt
hơn 6.000 tên địch, giải phóng một vùng rộng lớn ở địa bàn chiến lược quan trọng,
nối thông vùng giải phóng Tây Bắc với căn cứ địa Việt Bắc và Thượng Lào, giữ vững
thế chủ động tiến công, làm thất bại âm mưu mở rộng chiếm đóng của địch.
Ngày 5/12/1952, tại Bình - Trị - Thiên, Đại đoàn 325 được
thành lập, góp phần tăng thêm sức mạnh chiến đấu của “các quả đấm chủ lực cách
mạng”. Tính đến thời điểm này, đội quân chủ lực trực thuộc Bộ Tổng Tư lệnh đã
có 6 đại đoàn bộ binh (308, 304, 312, 320, 316, 325) và 1 đại đoàn công binh,
pháo binh (351).
Trước những thay đổi cục diện chiến tranh ở Đông Dương, trên
cơ sở đánh giá đúng tương quan so sánh lực lượng giữa ta và địch, tháng 9/1953,
Bộ Chính trị quyết định mở cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954. Thực
hiện chủ trương đó, Bộ Tổng Tư lệnh ra lệnh cho các đơn vị chủ lực phối hợp mở
đợt tiến công mạnh mẽ trên các chiến trường. Ta đã hình thành năm đòn tiến công
chiến lược tại Lai Châu, Trung Lào, Hạ Lào - Đông Bắc Campuchia, Tây Nguyên và
Thượng Lào, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giải phóng nhiều vùng đất đai rộng lớn,
buộc chúng phải căng ra đối phó ở khắp nơi.
Sau khi thực dân Pháp đổ quân đánh chiếm Điện Biên Phủ, trước
thời cơ thuận lợi, ngày 6/12/1953, Bộ Chính trị họp quyết định mở chiến dịch Điện
Biên Phủ. Sau 56 ngày đêm (13/3 - 7/5/1954) liên tục chiến đấu, quân và dân ta
đã đập tan toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, loại khỏi vòng chiến đấu
16.200 tên địch, bắn rơi và phá huỷ 62 máy bay; thu toàn bộ vũ khí, kho tàng,
cơ sở vật chất kỹ thuật của địch ở Điện Biên Phủ. Chiến thắng Điện Biên Phủ
giáng một đòn quyết định vào ý chí xâm lược, buộc thực dân Pháp phải ký kết Hiệp
định Giơ-ne-vơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam. Chiến dịch Điện Biên Phủ là một
điển hình xuất sắc, là đỉnh cao của nghệ thuật quân sự Việt Nam trong kháng chiến
chống Pháp; đồng thời là minh chứng cho sự phát triển vượt bậc của Quân đội ta
sau 10 năm xây dựng, chiến đấu và chiến thắng vẻ vang (1944 - 1954).
3. Quân đội nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước (1954 - 1975)
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can
thiệp Mỹ mở ra một giai đoạn phát triển mới của cách mạng Việt Nam. Miền Bắc
hoàn toàn giải phóng và bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Miền Nam
tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đánh đổ ách thống trị của đế
quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam
trong giai đoạn mới, tháng 3/1957, Hội nghị Trung ương lần thứ 12 (mở rộng) ra
Nghị quyết về vấn đề xây dựng Quân đội, củng cố quốc phòng, Nghị quyết chỉ rõ:
“Phương châm xây dựng quân đội của chúng ta là tích cực xây dựng một quân đội
nhân dân hùng mạnh tiến dần từng bước đến chính quy hoá và hiện đại hoá”[5].
Đến năm 1960, Quân đội ta đã có bước trưởng thành mới, từ lực
lượng chủ yếu là bộ binh với tổ chức chưa thật thống nhất, vũ khí, trang bị còn
thiếu thốn đã trở thành Quân đội chính quy, ngày càng hiện đại, gồm các lực lượng:
Lục quân, Hải quân, Phòng không - Không quân. Đây là bước phát triển rất quan
trọng, tạo nền móng cho xây dựng Quân đội tiến tới chính quy, hiện đại, sẵn
sàng đáp ứng nhiệm vụ mới của cách mạng.
Ở miền Bắc, Quân đội đã tích cực tham gia công tác tiếp quản
các thành phố, thị xã và các vùng do quân Pháp chiếm đóng trước đây. Thực hiện
tốt nhiệm vụ quân quản, phối hợp với các lực lượng công an nhanh chóng thiết lập
trật tự, trị an, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, đấu tranh chống địch bắt
người, cướp của, phá hoại tài sản công cộng.
Ở miền Nam, trong những năm 1954 - 1960, Mỹ - Diệm thực hiện
chính sách khủng bố tàn bạo, gây ra những tổn thất nặng nề cho cách mạng miền
Nam. Trước tình hình đó, Hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
II (1/1959) nêu lên hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam và vạch rõ
con đường cơ bản của cách mạng miền Nam là sử dụng bạo lực cách mạng. Chấp hành
nghị quyết của Đảng, Tổng Quân ủy và Bộ Quốc phòng đã quyết định đẩy mạnh hơn nữa
công cuộc xây dựng Quân đội. Việc chuẩn bị cho bộ đội ta vào miền Nam chiến đấu
cũng được xúc tiến. Theo đó, Sư đoàn 338 bộ đội miền Nam tập kết ra Bắc đã được
tập trung huấn luyện trước khi lên đường vào Nam chiến đấu. Ngày 19/5/1959,
Đoàn 559 được thành lập với nhiệm vụ mở đường dọc dãy Trường Sơn bảo đảm cho lực
lượng ta vào Nam chiến đấu và vận chuyển lương thực, súng đạn từ miền Bắc vào
miền Nam. Tiếp đó, Đoàn 759 cũng được thành lập với nhiệm vụ vận chuyển, tiếp tế
từ miền Bắc vào miền Nam theo đường biển.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 đã mở đường cho cách mạng miền
Nam đi đến thắng lợi. Để đẩy mạnh cao trào cách mạng của quần chúng, ngày
20/12/1960, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời. Ngày
15/2/1961, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập trên cơ sở thống nhất
các lực lượng vũ trang nhân dân ở miền Nam; đây là bộ phận của Quân đội nhân
dân Việt Nam trực tiếp hoạt động trên chiến trường miền Nam.
Từ năm 1961, đế quốc Mỹ tiến hành chiến lược “Chiến tranh đặc
biệt”. Được cố vấn Mỹ chỉ huy và dựa vào hỏa lực Mỹ chi viện, ngụy quân Sài Gòn
liên tiếp mở các cuộc hành quân đánh phá vùng giải phóng, gom dân lập “ấp chiến
lược”. Quân và dân ta đã liên tục chiến đấu, giữ vững và mở rộng vùng giải
phóng. Trong đó, tiêu biểu là chiến thắng Ấp Bắc (1/1963) mở đầu cho sự thất bại
của chiến thuật “trực thăng vận”, “thiết xa vận” của quân ngụy Sài Gòn; đồng thời
mở ra phong trào “Thi đua Ấp Bắc, giết giặc lập công” sôi nổi khắp miền Nam.
Ngày 5/8/1964, sau khi dựng lên sự kiện “Vịnh Bắc Bộ”, vu
cáo Hải quân nhân dân Việt Nam cố ý tiến công tàu khu trục Mỹ ở vùng biển quốc
tế nhằm đánh lừa dư luận, chính quyền Mỹ sử dụng không quân bất ngờ mở cuộc tiến
công mang tên “Mũi tên xuyên”, đánh phá vào hầu hết các căn cứ của hải quân ta
trên suốt dải ven biển miền Bắc. Nhờ chuẩn bị từ trước, các đơn vị hải quân,
phòng không, dân quân tự vệ đã kịp thời phát hiện, mưu trí, dũng cảm chiến đấu,
bắn rơi 8 máy bay, bắn bị thương 2 chiếc khác, bắt 1 phi công. Trận đầu đánh thắng
không quân Mỹ đã cổ vũ quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược của quân dân cả nước.
Trên cơ sở những thắng lợi trong năm 1963 và đầu năm 1964,
tháng 10/1964, Quân ủy Trung ương chỉ thị cho các lực lượng vũ trang miền Nam mở
đợt hoạt động Đông Xuân 1964 - 1965, tiêu diệt một bộ phận quan trọng quân chủ
lực ngụy, mở rộng vùng giải phóng. Sau các chiến dịch Bình Giã, Ba Gia, Đồng
Xoài của ta giành thắng lợi, chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ
hoàn toàn bị phá sản.
Từ giữa năm 1965, đế quốc Mỹ chuyển sang chiến lược “Chiến
tranh cục bộ”, ồ ạt đưa quân chiến đấu của Mỹ và đồng minh cùng khối lượng lớn
phương tiện chiến tranh vào miền Nam Việt Nam[6], đồng thời củng cố và tăng cường
quân ngụy. Toàn bộ mục tiêu chiến lược của đế quốc Mỹ trong giai đoạn này là
“tìm và diệt” chủ lực Quân Giải phóng và cơ quan chỉ đạo cách mạng miền Nam,
“bình định” miền Nam, uy hiếp tinh thần kháng chiến của nhân dân Việt Nam, buộc
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải ngồi vào bàn đàm phán theo những điều
kiện áp đặt của Mỹ.
Trước tình hình đó, từ tháng 9 đến tháng 12/1965, Bộ Quốc
phòng quyết định thành lập tại chiến trường miền Nam 5 sư đoàn bộ binh (9, 3,
2, 5, 1) và một đơn vị pháo binh tương đương cấp sư đoàn mang phiên hiệu Đoàn
pháo binh 69. Vừa xây dựng, vừa chiến đấu, bộ đội ta trên các chiến trường miền
Nam đã tổ chức các trận tiến công, bẻ gãy nhiều cuộc hành quân quy mô lớn của Mỹ
- ngụy, mở ra phong trào “tìm Mỹ mà đánh”, “tìm ngụy mà diệt”.
Mùa khô 1965 - 1966, đế quốc Mỹ mở cuộc phản công chiến lược
lần thứ nhất trên chiến trường miền Nam. Qua nửa năm chiến đấu gian khổ, quyết
liệt, quân và dân miền Nam đã đánh bại cuộc phản công của địch, loại khỏi vòng
chiến đấu hàng chục nghìn tên địch. Tháng 10/1966, đế quốc Mỹ quyết định mở cuộc
phản công chiến lược lần thứ hai nhằm tiêu diệt chủ lực và cơ quan đầu não của
cách mạng miền Nam. Dựa vào thế trận chiến tranh nhân dân phát triển cao, lực
lượng vũ trang tại chỗ của ta đã trụ bám trận địa, tiến công rộng khắp, tạo điều
kiện cho các đơn vị chủ lực Quân Giải phóng mở các cuộc tiến công, gây cho địch
nhiều thiệt hại về sinh lực và phương tiện chiến tranh, buộc quân Mỹ phải chấm
dứt cuộc phản công chiến lược lần thứ hai mùa khô 1966 - 1967.
Sau những thắng lợi quan trọng của cách mạng miền Nam, tháng
1/1968, Hội nghị Trung ương lần thứ 14 thông qua Nghị quyết của Bộ Chính trị
(12/1967), quyết định mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Chỉ
trong thời gian ngắn, quân và dân ta đã tiến công vào hàng loạt mục tiêu nằm
sâu trong các đô thị trên toàn miền Nam, gây cho địch thiệt hại rất nặng nề,
làm đảo lộn thế trận chiến lược của đế quốc Mỹ. Thắng lợi của cuộc Tổng tiến
công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã giáng đòn quyết định vào ý chí xâm lược của
giới cầm quyền Mỹ, làm phá sản chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, buộc Mỹ phải xuống
thang chiến tranh, rút dần quân về nước, chấp nhận đàm phán với ta tại Hội nghị
Paris.
Với bản chất ngoan cố và hiếu chiến, đế quốc Mỹ không cam
tâm chịu thất bại, từ năm 1969, chúng chuyển sang thi hành “Học thuyết Níchxơn”
và chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”. Trong những năm 1969 - 1972, đế quốc
Mỹ sử dụng tối đa về sức mạnh quân sự, kết hợp với những thủ đoạn chính trị và
ngoại giao hết sức xảo quyệt, hòng cô lập và bóp nghẹt cuộc kháng chiến của
Nhân dân ta. Trước tình hình đó, quân và dân ta đã phối hợp chặt chẽ với cuộc
chiến đấu của nhân dân Lào và nhân dân Campuchia anh em, giành được những thắng
lợi to lớn, tiêu biểu là chiến dịch Đường 9 - Nam Lào, chiến dịch Đông Bắc
Campuchia; đồng thời mở cuộc tiến công chiến lược trên toàn chiến trường miền
Nam bằng các chiến dịch tiến công hiệp đồng binh chủng ở Trị - Thiên, Bắc Tây
Nguyên, miền Đông Nam Bộ, các chiến dịch tiến công tổng hợp ở đồng bằng sông Cửu
Long, Trung Bộ.
Trước nguy cơ thất bại của chiến lược “Việt Nam hóa chiến
tranh”, ngày 6/4/1972, đế quốc Mỹ huy động một lực lượng lớn không quân và hải
quân mở cuộc chiến tranh đánh phá miền Bắc lần thứ hai (chiến dịch Linebacker
I) với quy mô lớn, ác liệt hơn lần trước. Với tinh thần dũng cảm và cách đánh
mưu trí, sáng tạo, qua 7 tháng chiến đấu quyết liệt, quân và dân miền Bắc đã bắn
rơi 654 máy bay, bắn chìm và bắn cháy 125 tàu chiến Mỹ.
Trước những thất bại nặng nề, đêm 18/12/1972, đế quốc Mỹ liều
lĩnh mở cuộc tập kích đường không chiến lược quy mô lớn nhất mang tên “Chiến dịch
Linebacker II” đánh phá miền Bắc, tập trung ồ ạt vào Hà Nội, Hải Phòng. Một lần
nữa quân và dân miền Bắc đã anh dũng chiến đấu, đánh bại cuộc tập kích chiến lược
của địch; bắn rơi 81 máy bay, trong đó có 34 chiếc B-52, 5 chiếc F-111. Bị tổn
thất lớn và không đạt mục đích, đế quốc Mỹ buộc phải tuyên bố ngừng ném bom miền
Bắc từ bắc vĩ tuyến 20 trở ra và nối lại cuộc đàm phán ở Paris. Dư luận thế giới
gọi đây là trận “Điện Biên Phủ trên không”.
Những thắng lợi to lớn của quân và dân ta trên chiến trường
miền Nam, cùng với Chiến thắng "Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không" đã
buộc đế quốc Mỹ phải ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa
bình ở Việt Nam (27/1/1973), rút quân về nước. Tuy nhiên, ngụy quyền Sài Gòn
ngang nhiên vi phạm Hiệp định, ráo riết thực hiện kế hoạch “tràn ngập lãnh thổ”,
đẩy mạnh lấn chiếm vùng giải phóng của ta.
Để sớm kết thúc chiến tranh, theo đề nghị của Quân ủy Trung
ương và Bộ Quốc phòng, từ cuối năm 1973 đến đầu năm 1975, Bộ Chính trị đã phê
chuẩn việc thành lập các quân đoàn: Quân đoàn 1 (10/1973), Quân đoàn 2
(5/1974), Quân đoàn 4 (7/1974), Quân đoàn 3 (3/1975) và Đoàn 232 (tương đương
quân đoàn, 2/1975). Việc thành lập các quân đoàn chủ lực đã đánh dấu bước phát
triển mới của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Trong hai năm 1973 - 1974, quân và dân ta liên tiếp giành được
thắng lợi quan trọng, làm cho cục diện chiến trường tiếp tục thay đổi có lợi
cho ta. Hội nghị Bộ Chính trị tháng 10/1974 và đầu năm 1975 đã chỉ rõ sự xuất
hiện thời cơ lịch sử và nêu quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam. Thực hiện
chủ trương của Bộ Chính trị, ngày 4/3/1975, bộ đội ta mở chiến dịch Tây Nguyên,
mở đầu cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975. Sau một số trận đánh tạo thế
và nghi binh chiến dịch, ngày 10 và 11/3/1975, quân ta tiến công giải phóng thị
xã Buôn Ma Thuột. Tiếp đó, giải phóng hoàn toàn tỉnh Kon Tum, Gia Lai và toàn bộ
Tây Nguyên.
Sau khi chiến dịch Tây Nguyên nổ ra được một ngày, ngày
5/3/1975, quân ta mở chiến dịch Trị Thiên - Huế, giải phóng tỉnh Quảng Trị,
thành phố Huế và tỉnh Thừa Thiên. Phát huy thắng lợi, từ ngày 26/3 - 29/3/1975,
quân ta mở chiến dịch Đà Nẵng, giải phóng hoàn toàn Đà Nẵng, bán đảo Sơn Trà và
thị xã Hội An. Phối hợp với lực lượng vũ trang và nhân dân địa phương, bộ đội
ta tiến công giải phóng các tỉnh Bình Định, Phú Yên (1/4), Khánh Hòa (3/4)…
Từ những thắng lợi đó, Bộ Chính trị quyết định giải phóng
Sài Gòn và toàn miền Nam. Chiến dịch giải phóng Sài Gòn được lấy tên là “Chiến
dịch Hồ Chí Minh”. Thực hiện tư tưởng chỉ đạo: “Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc
thắng”, ngày 26/4, quân ta hình thành thế bao vây Sài Gòn từ 5 hướng, do các
Quân đoàn 1, 2, 3, 4, Đoàn 232 và Sư đoàn 8 (Quân khu 8) đảm nhiệm. 17 giờ ngày
26/4, chiến dịch bắt đầu. Sau nhiều trận chiến đấu quyết liệt đánh chiếm vòng
ngoài thắng lợi, sáng 30/4, quân ta tổng công kích vào nội thành Sài Gòn, nhanh
chóng thọc sâu đánh chiếm các mục tiêu then chốt; 10 giờ 45 phút, lực lượng thọc
sâu của Quân đoàn 2 đánh chiếm Dinh Độc Lập, bắt toàn bộ nội các chính quyền
Sài Gòn, buộc tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng không điều kiện. 11
giờ 30 phút cùng ngày, lá cờ của Quân Giải phóng được cắm trên nóc Dinh Độc Lập,
đánh dấu sự toàn thắng của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Song song với các cuộc tiến công trên bộ giành thắng lợi, thực
hiện chỉ đạo của Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh, Quân chủng Hải quân đã
khẩn trương chuẩn bị lực lượng, tranh thủ thời cơ, mưu trí, táo bạo, bất ngờ tiến
công lần lượt giải phóng các đảo thuộc quần đảo Trường Sa: Song Tử Tây (14/4),
Sơn Ca (25/4), Nam Yết (27/4), Sinh Tồn (28/4), Trường Sa (29/4). Đây là thắng
lợi có ý nghĩa chiến lược, góp phần giữ vững chủ quyền quốc gia ở quần đảo Trường
Sa.
Chiến dịch Hồ Chí Minh là chiến dịch hiệp đồng quân, binh chủng
quy mô lớn nhất, giành thắng lợi to lớn nhất, đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc
của Quân đội ta cả về tổ chức lực lượng và trình độ chỉ huy tác chiến hiệp đồng
quân binh chủng; là đỉnh cao của nghệ thuật quân sự Việt Nam, góp phần quyết định
kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
4. Quân đội nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc (1975 - 2024)
Ngay sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước kết thúc thắng
lợi, các đơn vị Quân đội đứng chân trên các vùng mới được giải phóng đã phối hợp
với Ủy ban quân quản các cấp, khẩn trương xây dựng, củng cố chính quyền cách mạng
cơ sở, xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang địa phương; tổ chức cải
tạo binh lính cảnh sát của bộ máy chính quyền cũ, trấn áp các phần tử và tổ chức
phản động,… Đồng thời, các đơn vị đã tích cực tham gia lao động sản xuất, phát
triển kinh tế, tham gia xây dựng nhiều công trình trọng điểm trên mọi miền đất
nước.
Sau đại thắng mùa Xuân 1975, Quân đội ta lại phải tiến hành
cuộc chiến tranh chính nghĩa bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc và cùng quân
dân Campuchia lật đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt. Trước hành động xâm lược của
quân Pôn Pốt và đáp lời kêu gọi khẩn thiết của Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước
Campuchia, Quân tình nguyện Việt Nam cùng với lực lượng vũ trang cách mạng
Campuchia đã thực hiện cuộc phản công, tiến công mạnh mẽ, đánh đổ chế độ diệt
chủng Pôn Pốt, giải phóng thủ đô Phnôm Pênh vào ngày 07/01/1979, tiến tới giải
phóng toàn bộ đất nước Campuchia. Trong 10 năm (1979 - 1989), Quân tình nguyện
và chuyên gia Việt Nam đã phát huy tinh thần quốc tế trong sáng, cùng quân dân
Campuchia truy quét tàn quân Pôn Pốt, củng cố chính quyền cách mạng, xây dựng lực
lượng vũ trang, hồi sinh đất nước.
Cũng đầu năm 1979, quân và dân ta phải chiến đấu bảo vệ biên
giới phía Bắc của Tổ quốc. Cuộc chiến đấu diễn ra trong thời gian ngắn (17/2 -
6/3/1979), nhưng trên thực tế tình hình biên giới phía Bắc căng thẳng kéo dài đến
cuối những năm 80 của thế kỷ XX. Trong cuộc chiến đấu này, quân và dân ta đã
anh dũng chiến đấu, bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới, lãnh thổ của Tổ quốc.
Thắng lợi của quân và dân ta trong chiến tranh bảo vệ biên
giới Tây Nam và cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của Tổ quốc có ý nghĩa
lịch sử rất to lớn, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc, tạo môi trường hòa bình để phát triển đất nước.
Trong những năm 1980 - 1986, Quân đội ta đã đẩy mạnh công
tác huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, giáo dục - đào tạo, xây dựng nền nếp chính
quy; tích cực tham gia xây dựng kinh tế, xã hội. Toàn quân đã tổ chức hàng trăm
cuộc diễn tập tác chiến hiệp đồng quân binh chủng quy mô lớn với nhiều binh khí
kỹ thuật hiện đại trên các địa bàn chiến lược, góp phần rèn luyện, nâng cao khả
năng tổ chức chỉ huy của cán bộ và trình độ sẵn sàng chiến đấu của bộ đội.
Từ sau Đại hội lần thứ VI của Đảng (12/1986) đến nay, Quân đội
cùng toàn dân tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Quân đội
luôn thực hiện tốt chức năng đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân
lao động sản xuất, đóng góp xứng đáng vào thành tựu chung của đất nước. Nổi bật
là:
- Quân đội thường xuyên nắm chắc và dự báo đúng tình hình,
chủ động tham mưu với Đảng, Nhà nước đề ra đối sách phù hợp, xử lý linh hoạt,
thắng lợi các tình huống, không để bị động, bất ngờ về chiến lược, ngăn ngừa
nguy cơ chiến tranh, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ,
bảo đảm sự ổn định chính trị, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế -
xã hội. Tham mưu ban hành Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về “Chiến
lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, các chiến lược, dự án luật, đề án về
quân sự, quốc phòng. Phát huy tốt vai trò nòng cốt, chủ động phối hợp với các
ban, bộ, ngành, địa phương trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh,
xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, “thế trận lòng dân” và khu vực phòng thủ
vững chắc.
- Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng ban hành nhiều nghị quyết,
chỉ thị lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao chất lượng huấn luyện chiến đấu với quan điểm
chỉ đạo xuyên suốt: “Huấn luyện là nhiệm vụ chính trị trung tâm, thường xuyên
trong thời bình”. Trên cơ sở đó, toàn quân đã thường xuyên đổi mới, nâng cao chất
lượng công tác huấn luyện, diễn tập; bám sát phương châm “Cơ bản - Thiết thực -
Vững chắc”, coi trọng huấn luyện đồng bộ và chuyên sâu, theo hướng hiện đại,
nâng cao sức cơ động chiến đấu của bộ đội, đáp ứng với các hình thái chiến
tranh mới. Bộ Quốc phòng đã chỉ đạo và tổ chức thành công nhiều cuộc diễn tập
tác chiến hiệp đồng quân chủng, binh chủng quy mô lớn, khẳng định sức mạnh, khả
năng sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu của Quân đội, được Đảng và Nhà nước ghi nhận,
đánh giá cao.
- Toàn quân thường xuyên duy trì nghiêm nền nếp, chế độ sẵn
sàng chiến đấu, nắm chắc, đánh giá, dự báo đúng tình hình, nhất là tình hình
trên không, trên biển, biên giới, nội địa, ngoại biên, không gian mạng, kịp thời
xử trí khi có tình huống, không để bị động, bất ngờ. Chủ động và kiên quyết đấu
tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, kịp thời phát hiện,
ngăn chặn và làm thất bại mọi âm mưu, hành động phá hoại của các thế lực thù địch.
Phối hợp với các lực lượng bảo vệ an toàn tuyệt đối các sự kiện chính trị quan
trọng của đất nước.
- Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã lãnh đạo, chỉ đạo
toàn quân triển khai nhiều giải pháp thiết thực xây dựng Quân đội vững mạnh về
chính trị, làm cơ sở để nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của
Quân đội; xây dựng Đảng bộ Quân đội và các cấp ủy, tổ chức đảng trong toàn quân
trong sạch, vững mạnh tiêu biểu gắn với xây dựng các cơ quan, đơn vị vững mạnh
toàn diện “mẫu mực, tiêu biểu”. Triển khai có hiệu quả chủ trương xây dựng Quân
đội tinh, gọn, mạnh; tổ chức thực hiện tốt công tác hậu cần, kỹ thuật và các mặt
công tác khác. Đặc biệt, công nghiệp quốc phòng được phát triển theo hướng hiện
đại, lưỡng dụng; đã nghiên cứu làm chủ công nghệ chế tạo và sản xuất được một số
vũ khí, trang bị kỹ thuật mới, hiện đại mang thương hiệu Việt Nam. Công tác hội
nhập quốc tế, đối ngoại quốc phòng đạt nhiều kết quả nổi bật trên cả bình diện
song phương và đa phương; tích cực tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình Liên
hợp quốc, hỗ trợ nhân đạo, tìm kiếm cứu nạn, cứu trợ thảm họa, khắc phục hậu quả
chiến tranh, được bạn bè quốc tế đánh giá cao.
- Thực hiện chức năng đội quân công tác, Quân đội đã có những
đóng góp quan trọng trong thực hiện công tác dân vận; tích cực tuyên truyền, vận
động Nhân dân thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước, các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động cách
mạng, nhiệm vụ chính trị của địa phương; tham gia xây dựng hệ thống chính trị ở
cơ sở vững mạnh, tăng cường quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế, văn hóa,
xã hội; tích cực giúp Nhân dân xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới. Đặc
biệt, cán bộ, chiến sĩ Quân đội đã không quản ngại gian khổ, hy sinh, xung kích
trong phòng chống thiên tai, dịch bệnh, cứu nạn, cứu hộ, để bảo vệ tính mạng và
tài sản của Nhân dân; nhiều cán bộ, chiến sĩ đã ngã xuống trong thực hiện nhiệm
vụ cao cả này. Hình ảnh cán bộ, chiến sĩ Quân đội luôn có mặt ở những nơi xung
yếu, hiểm nguy để giúp đỡ Nhân dân ứng phó với thiên tai, dịch bệnh đã làm ngời
sáng thêm bản chất tốt đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân tin
tưởng, đánh giá cao.
- Thực hiện chức năng đội quân lao động sản xuất, Quân đội
đã tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước ban hành các cơ chế, chính sách phù hợp
với chủ trương phát triển kinh tế, xã hội gắn với củng cố quốc phòng, an ninh
trong giai đoạn mới; xây dựng và phát huy hiệu quả các khu kinh tế - quốc phòng
trong tham gia phát triển kinh tế, xã hội gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh ở
các địa bàn chiến lược, đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển đảo.
Các doanh nghiệp quân đội được tổ chức, sắp xếp phù hợp với yêu cầu đổi mới qua
từng thời kỳ, vừa phục vụ tốt nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, vừa góp phần phát
triển kinh tế, xã hội. Các đơn vị đã tham gia xây dựng nhiều công trình trọng
điểm quốc gia, công trình hạ tầng phục vụ dân sinh, đóng góp đáng kể vào thu nhập
quốc dân, bảo đảm an sinh xã hội; tham gia thực hiện có hiệu quả các Chương
trình mục tiêu quốc gia gắn với thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng. Toàn
quân đã chú trọng tăng gia sản xuất, góp phần cải thiện đời sống của bộ đội.
5. Truyền thống vẻ vang của Quân đội nhân dân Việt Nam
Trải qua 80 năm xây dựng, chiến đấu, chiến thắng và trưởng
thành, Quân đội ta đã xây đắp nên truyền thống rất vẻ vang, được khái quát cô đọng
trong lời khen ngợi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu
với dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ
nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù
nào cũng đánh thắng”[7]. Truyền thống đó được thể hiện:
- Trung thành vô hạn với Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa,
với Đảng, Nhà nước và Nhân dân.
- Quyết chiến, quyết thắng, biết đánh và biết thắng.
- Gắn bó máu thịt với Nhân dân, quân với dân một ý chí.
- Đoàn kết nội bộ; cán bộ, chiến sĩ bình đẳng về quyền lợi
và nghĩa vụ, thương yêu, giúp đỡ nhau, trên dưới đồng lòng, thống nhất ý chí và
hành động.
- Kỷ luật tự giác, nghiêm minh.
- Độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, cần, kiệm xây dựng Quân
đội, xây dựng đất nước, tôn trọng và bảo vệ của công.
- Lối sống trong sạch, lành mạnh, có văn hóa, trung thực,
khiêm tốn, giản dị, lạc quan.
- Luôn luôn nêu cao tinh thần ham học hỏi, cầu tiến bộ, ứng
xử chuẩn mực, tinh tế.
- Đoàn kết quốc tế trong sáng, thủy chung, chí nghĩa, chí
tình.
II. LỊCH SỬ VÀ Ý NGHĨA NGÀY HỘI QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN
1. Lịch sử Ngày hội Quốc phòng toàn dân
Quốc phòng toàn dân là nền quốc phòng mang tính chất “vì
dân, do dân, của dân”, phát triển theo phương hướng: toàn dân, toàn diện, độc lập,
tự chủ, tự lực, tự cường và ngày càng hiện đại, kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc
phòng và an ninh, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước,
do Nhân dân làm chủ, nhằm giữ vững hòa bình, ổn định của đất nước, sẵn sàng
đánh bại mọi hành động xâm lược và bạo loạn lật đổ của các thế lực đế quốc và
phản động, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”[8].
Đảng, Nhà nước ta luôn nhất quán khẳng định, xây dựng nền quốc
phòng toàn dân vững mạnh là sự nghiệp cách mạng của toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân và cả hệ thống chính trị, trong đó lực lượng vũ trang nhân dân là nòng cốt.
Nền quốc phòng của Việt Nam là nền quốc phòng mang tính chất hòa bình, tự vệ và
mang bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa. Việt Nam xây dựng sức mạnh quân sự,
quốc phòng dựa trên sức mạnh tổng hợp của cả nước, của khối đại đoàn kết toàn
dân tộc, của cả hệ thống chính trị do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, kết hợp
sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, sức mạnh của lực lượng và thế trận quốc
phòng toàn dân với sức mạnh của lực lượng và thế trận an ninh nhân dân. Đảng,
Nhà nước ta chủ trương phát triển kinh tế, xã hội gắn với tăng cường khả năng
quốc phòng, an ninh, phối hợp chặt chẽ hoạt động quốc phòng, an ninh với hoạt động
đối ngoại thành một thể thống nhất để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
Thực tiễn lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, nhất
là các cuộc khởi nghĩa, các cuộc chiến tranh giải phóng và chiến tranh bảo vệ Tổ
quốc do Nhân dân ta tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng đã chứng minh sức mạnh
vô địch của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Bất kỳ giai đoạn nào, phải đương đầu
với kẻ thù hung bạo đến đâu, nếu cổ vũ, động viên, quy tụ được sức mạnh toàn
dân thì dân tộc ta đều giành thắng lợi vĩ đại, bảo đảm sự bền vững của độc lập,
tự do, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ.
Xuất phát từ vai trò của công tác tuyên truyền, cổ vũ, động
viên toàn dân tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, đồng thời thể
theo nguyện vọng của quân và dân cả nước, ngày 17/10/1989, Ban Bí thư Trung
ương Ðảng khóa VI đã ra Chỉ thị số 381-CT/TW quyết định lấy ngày 22/12 - Ngày
thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam là Ngày hội Quốc phòng toàn dân. Ngày
22/12/1989, lần đầu Ngày hội Quốc phòng toàn dân được tổ chức tại tất cả các địa
phương trong cả nước. Từ đó đến nay, ngày 22/12 đã trở thành ngày hội lớn của
toàn dân tộc với các hoạt động hướng vào chủ đề quốc phòng và quân đội.
2. Ý nghĩa của Ngày hội Quốc phòng toàn dân
Lấy ngày 22/12 là Ngày hội Quốc phòng toàn dân là sự kế thừa
truyền thống toàn dân đánh giặc giữ nước của dân tộc ta qua các giai đoạn lịch
sử; là chủ trương lớn, quan trọng của Đảng, Nhà nước; tiếp tục khẳng định quan
điểm toàn dân tham gia xây dựng, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, trong đó lực
lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt. Đây thực sự là ngày hội của truyền thống
dựng nước và giữ nước, ngày hội tôn vinh và nhân lên hình ảnh cao đẹp “Bộ đội Cụ
Hồ”, một nét độc đáo của văn hóa dân tộc Việt Nam trong thời đại mới.
Ngày hội Quốc phòng toàn dân là dịp để tuyên truyền sâu rộng
truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc và phẩm chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”,
giáo dục lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội; từ đó nâng cao nhận thức, trách
nhiệm của toàn dân trong tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh gắn
với thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc, tăng cường sức mạnh bảo vệ Tổ quốc.
Đồng thời, cổ vũ, động viên toàn dân chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang nhân
dân vững mạnh trên từng địa phương, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam hùng mạnh
trong tình hình mới.
Hằng năm, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đã có rất nhiều
hoạt động phong phú, sáng tạo để tổ chức kỷ niệm Ngày thành lập Quân đội nhân
dân Việt Nam và Ngày hội Quốc phòng toàn dân, như: Mít tinh, hội thảo, hội nghị
đoàn kết quân - dân, ngày hội văn hóa quân - dân, tổ chức các hoạt động tuyên
truyền, giáo dục với nội dung, hình thức phong phú, đa dạng; tổ chức gặp mặt,
giao lưu, nói chuyện truyền thống, thăm hỏi động viên các cựu chiến binh, cựu
thanh niên xung phong, các gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh; giao lưu
văn hóa, văn nghệ, thi đấu thể dục thể thao, hội thao quân sự trong lực lượng
vũ trang nhân dân; xây dựng nhà tình nghĩa, nhà đại đoàn kết tặng các đối tượng
chính sách; tham gia xây dựng, tu sửa, tôn tạo, nâng cấp nghĩa trang liệt sĩ,
đài tưởng niệm, đền thờ liệt sĩ; tổ chức dâng hương, tri ân các anh hùng, liệt
sĩ...
Các cấp, các ngành, cấp ủy và chính quyền các địa phương đã
chú trọng đẩy mạnh phong trào thi đua lao động sản xuất, phát triển kinh tế,
văn hóa, xã hội, xóa đói, giảm nghèo, gắn với xây dựng và phát triển tiềm lực
quốc phòng, an ninh qua các chương trình, các dự án phát triển kinh tế - xã hội
ở địa phương; tuyên truyền, vận động quần chúng Nhân dân tích cực tham gia xây
dựng và củng cố quốc phòng, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an
ninh nhân dân, xây dựng cơ sở chính trị ở địa phương vững mạnh. Thông qua đó,
“thế trận lòng dân” ngày càng được củng cố vững chắc, góp phần làm thất bại âm
mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, giữ vững ổn định chính trị,
trật tự an toàn xã hội để phát triển đất nước nhanh và bền vững. Đại hội XIII của
Đảng đánh giá: “Tiềm lực quốc phòng và an ninh được tăng cường; thế trận lòng
dân được chú trọng; thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân,
nhất là trên các địa bàn chiến lược, trọng điểm, được củng cố vững chắc”[9].
III. XÂY DỰNG QUÂN ĐỘI, CỦNG CỐ QUỐC PHÒNG, ĐÁP ỨNG YÊU CẦU
SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH HÌNH MỚI
Trong những năm tới, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn
biến phức tạp, khó dự báo. Hòa bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu thế lớn,
song đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn, thách thức. Các nước lớn vừa hợp tác,
thỏa hiệp, vừa cạnh tranh quyết liệt; tăng cường điều chỉnh chiến lược, lôi
kéo, tập hợp lực lượng. Nhiều điểm nóng, xung đột tiếp tục tồn tại, có nguy cơ
lan rộng. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển mạnh mẽ, tạo ra cả
thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia, dân tộc. Sự xuất hiện của các loại
vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự hiện đại, nhiều hình thái chiến tranh mới làm
thay đổi môi trường chiến lược. Các thách thức an ninh phi truyền thống ngày
càng gay gắt, tác động tiêu cực đến sự tồn tại, phát triển bền vững của các quốc
gia, trong đó có Việt Nam.
Ở trong nước, mặc dù đạt được nhiều thành tựu về kinh tế -
xã hội, kinh tế vĩ mô bảo đảm ổn định nhưng chưa thật sự vững chắc; tiềm lực đất
nước tiếp tục được tăng cường, uy tín, vị thế trên trường quốc tế được nâng
cao, song cũng còn nhiều khó khăn, thách thức. Bốn nguy cơ Đảng ta xác định vẫn
còn hiện hữu; những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
“tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ, tình trạng tham nhũng chưa được đẩy
lùi; sự xuống cấp của một số giá trị văn hóa và đạo đức, những mâu thuẫn, bức
xúc trong xã hội còn diễn biến phức tạp. Tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông
còn tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn định. Các thế lực thù địch, phản động tăng cường
chống phá Đảng, Nhà nước, Quân đội với âm mưu, thủ đoạn ngày càng công khai, trực
diện và tinh vi hơn.
Tình hình đó đặt ra những khó khăn, thách thức mới đối với sự
nghiệp xây dựng Quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong những năm tới;
đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp
của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại,
tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc
độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà
nước, Nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa và lợi ích quốc gia - dân
tộc; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, an ninh
con người; xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh để phát triển
đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Phát huy những bài học kinh nghiệm quý báu trong lịch sử đấu
tranh giữ nước của dân tộc, trong lịch sử xây dựng, chiến đấu và chiến thắng của
Quân đội nhân dân Việt Nam, chúng ta tiếp tục giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo
tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của
Nhà nước đối với Quân đội nhân dân và sự nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ
quốc. Quán triệt sâu sắc và thực hiện có hiệu quả đường lối quốc phòng toàn
dân, chiến tranh nhân dân; khơi dậy và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, ý
chí tự lực, tự cường, truyền thống văn hóa tốt đẹp, sức mạnh khối đại đoàn kết
toàn dân tộc để thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tăng cường xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với nền an
ninh nhân dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân
và “thế trận lòng dân” vững chắc. Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận
thức, trách nhiệm của toàn xã hội đối với nhiệm vụ tăng cường quốc phòng, an
ninh, bảo vệ Tổ quốc. Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục,
bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh cho các đối tượng; chú trọng tuyên truyền,
giáo dục nâng cao nhận thức về đối tác, đối tượng của cách mạng Việt Nam, đường
lối, quan điểm của Đảng, yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, bồi
dưỡng ý thức trách nhiệm, tinh thần cảnh giác cách mạng trong thực hiện nhiệm vụ
quốc phòng, an ninh.
Chú trọng xây dựng tiềm lực, lực lượng, thế trận quốc phòng,
nâng cao tính bền vững và khả năng huy động đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng
trong các tình huống. Xây dựng khu vực phòng thủ các cấp vững chắc, tạo thế bố
trí phòng thủ liên hoàn trên từng địa bàn và phạm vi cả nước. Kết hợp chặt chẽ,
hiệu quả giữa kinh tế, văn hoá, xã hội, đối ngoại với quốc phòng, an ninh và giữa
quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hoá, xã hội và đối ngoại theo đúng quan điểm
chỉ đạo: “Phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt;
phát triển văn hoá là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng
yếu, thường xuyên”.
Xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ,
từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện
đại. Đến năm 2025, cơ bản xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững
chắc, phấn đấu năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ, hiện đại; vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ.
Điều chỉnh tổ chức Quân đội theo hướng tinh, gọn, mạnh, gắn với bố trí lại lực
lượng và nâng cao chất lượng thu hút, đào tạo nhân tài, nguồn nhân lực chất lượng
cao trong Quân đội. Giữ vững và phát huy truyền thống vẻ vang của Quân đội, phẩm
chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ” và nghệ thuật quân sự Việt Nam; thực hiện tốt chức
năng “đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất”; sẵn
sàng các phương án bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ, ứng phó các mối đe dọa an ninh phi truyền thống; nâng cao năng lực
phòng, chống chiến tranh không gian mạng, chiến tranh thông tin. Đồng thời,
quan tâm, chăm lo thực hiện tốt chính sách đối với Quân đội và chính sách hậu
phương quân đội.
Tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác hội nhập quốc tế và đối
ngoại quốc phòng theo tinh thần Kết luận số 53 ngày 28/4/2023 của Bộ Chính trị
và Nghị quyết số 2662-NQ/QUTW ngày 26/2/2024 của Quân ủy Trung ương về hội nhập
quốc tế và đối ngoại quốc phòng đến năm 2030 và những năm tiếp theo. Quán triệt
và thực hiện tốt phương châm “tích cực, chủ động, chắc chắn, linh hoạt, hiệu quả”
trong hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng, kiên định chính sách quốc phòng
“Bốn không” của Việt Nam trong quan hệ quốc tế (không tham gia liên minh quân sự,
không liên kết với nước này để chống nước kia, không cho nước ngoài đặt căn cứ
quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác, không sử dụng vũ
lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế). Từ đó, tranh thủ tối đa
sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, tăng cường lòng tin chiến lược, giữ
vững môi trường hòa bình, hợp tác, cùng phát triển, góp phần bảo vệ Tổ quốc “từ
sớm, từ xa”.
Kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam và
35 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân là dịp để chúng ta ôn lại lịch sử hào hùng
của dân tộc, bản chất, truyền thống tốt đẹp, những chiến công oanh liệt của
Quân đội và nhân dân ta; qua đó, khơi dậy niềm tự hào, tự tôn dân tộc, phát huy
chủ nghĩa anh hùng cách mạng, nâng cao lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, ý
chí tự lực, tự cường, vượt qua mọi khó khăn, thử thách; ra sức xây dựng nền quốc
phòng toàn dân vững mạnh, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận
an ninh nhân dân vững chắc, xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy,
tinh nhuệ, hiện đại trong những năm tới theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII
của Đảng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
trong thời kỳ mới.
BAN TUYÊN GIÁO TRUNG ƯƠNG - TỔNG CỤC CHÍNH TRỊ QĐND VIỆT
NAM
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 4.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2,
Sđd, tr. 95.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7,
Sđd, tr. 356.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7,
Sđd, tr. 357.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 18,
Sđd, tr. 287.
[6] Số quân Mỹ được đưa vào miền Nam Việt Nam: tháng 4/1965:
18.000 quân; tháng 7/1965: 81.000 quân; tháng 12/1965: 181.000 quân; tháng
12/1966: 376.000 quân; tháng 12/1967: 480.000 quân; tháng 4/1968: 543.000 quân
(Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị: Tổng kết cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước - Thắng lợi và bài học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1995, tr. 312).
[7] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 14, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2011, tr. 435.
[8] Bộ Quốc phòng - Trung tâm Từ điển bách khoa quân sự, Từ
điển bách khoa quân sự Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004, tr. 848.
[9] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, hà Nội, 2011, tr. 68.