Thời gian gần đây, một
số nhà nghiên cứu phương Tây và một bộ phận cán bộ, đảng viên trong nước cho rằng,
trong thời đại ngày nay, chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời. Bởi vậy, chúng ta
không thể xây dựng được một xã hội mới tốt đẹp, dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng và văn minh trên nền tảng của học thuyết lỗi thời đó.
Câu hỏi đặt ra là, chủ nghĩa Mác - Lênin có thật là đã lỗi thời không khi xem xét dưới mọi bình diện, từ ý nghĩa khoa học, mục tiêu xã hội đến ý nghĩa thực tiễn? Nếu nó là lỗi thời thì nguyên nhân và cơ sở nào quy định, ngược lại nếu không lỗi thời thì tại sao và do đâu?
Trước hết, những người phủ nhận, cho rằng chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời thường dựa chủ yếu vào 4 lý do sau đây: Thứ nhất, chủ nghĩa Mác Lênin ra đời từ những điều kiện kinh tế - xã hội của thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX nên không còn phù hợp với thực tiễn hiện nay. Thứ hai, chủ nghĩa xã hội hiện thực được xây dựng theo học thuyết của C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin ở Liên Xô, các nước Đông Âu đã bị sụp đổ. Hiện thực sụp đổ có nghĩa là lý thuyết sai lầm. Thứ ba, điều kiện kinh tế và xã hội ở các nước tư bản phát triển được cải thiện rất nhiều so với ở các nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, chúng tỏ chủ nghĩa tư bản là ưu việt. Và thứ tư, một loạt sai lầm, khuyết điểm mà các nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, trong đó có nước ta, đã và đang mắc phải, chứng tỏ lý luận về chủ nghĩa xã hội là sai lầm và lỗi thời. Trong bài viết này, tác giả sẽ trao đổi về các lý do đó.
Về lý do thứ nhất, đúng là học thuyết của
C. Mác và Ph. Ăngghen ra đời từ giữa thế kỷ XIX, trong điều kiện những mâu thuẫn
của chủ nghĩa tư bản đã trở nên gay gắt, phơi bày tất cả bản chất giai cấp của
nó cùng với sự bóc lột người lao động đến cùng cực. C. Mác và Ph. Ăngghen kế thừa
những thành tựu nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước, tiếp thu có phê phán
toàn bộ những giá trị tinh hoa của quá trình phát triển tư tưởng của nhân loại.
Đặc biệt là triết học cổ điển Đức, kinh tế - chính trị học cổ điển Anh, chủ
nghĩa xã hội không tưởng - phê phán Pháp và Anh đã đóng góp những cơ sở nhận thức
quan trọng vào quá trình hình thành học thuyết của C. Mác và Ph. Ăngghen. Cũng
cần phải nói rằng, lần đầu tiên trong lịch sử tư tưởng nhân loại, C. Mác và Ph.
Ăngghen đã phát hiện ra tính quy luật trong sự vận động của xã hội loài người,
trong đó nhân tố quyết định là mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất với
quan hệ sản xuất. Đây chính là cơ sở để C. Mác và Ph. Ăngghen dự báo về tất yếu
loài người sẽ tiến tới hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, mà giai
đoạn đầu là xã hội xã hội chủ nghĩa - với tính cách là quá độ để tiến tới giai
đoạn cao là xã hội cộng sản chủ nghĩa.
V.I. Lênin là người
tiếp tục phát triển những tư tưởng của C. Mác và Ph. Ăngghen vào thời kỳ cuối
thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, trong điều kiện mới khi chủ nghĩa tư bản đã chuyển
sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. V.I. Lênin có nhiều đóng góp vào phát triển
các tư tưởng triết học, kinh tế - chính trị và chủ nghĩa xã hội khoa học của C.
Mác và Ph. Ăngghen. Đặc biệt, V.I. Lênin đã phát triển tư tưởng về khả năng thắng
lợi của cách mạng vô sản ở một nước tư bản riêng biệt, thậm chí trình độ phát
triển chưa cao; xây dựng học thuyết về một chính đảng mácxít kiểu mới; tổ chức
cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa thắng lợi và vận dụng học thuyết của C. Mác để
phân tích, giải quyết hàng loạt vấn đề trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở nước Nga và Liên bang Xô viết.
Điều hiển nhiên và
không thể chối cãi là, dù được hiểu theo nghĩa nào, chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn
là khoa học về những quy luật chung nhất của sự vận động, phát triển của tự
nhiên, xã hội và tư duy; quy luật về sự phát triển của sản xuất xã hội, về cuộc
đấu tranh của giai cấp vô sản và nhân dân lao động chống lại áp bức, bóc lột,
mưu cầu tự do, hạnh phúc; quy luật về cách mạng xã hội chủ nghĩa và con đường
xây dựng, phát triển đi tới chủ nghĩa cộng sản. Vào thời điểm ra đời của học
thuyết này, những tác giả của chủ nghĩa Mác - Lênin đã phê phán chủ nghĩa tư bản,
chỉ ra bản chất bóc lột, tính quy luật trong sự tồn tại và phát triển của nó. Sự
phê phán đó là sâu sắc và phản ánh đúng bản chất của thực tiễn xã hội đương thời.
Đó là điều đã được thực tế kiểm nghiệm, được hầu hết các nhà nghiên cứu xã hội
thừa nhận cho dù họ theo xu hướng chính trị nào. Từ sự phê phán chủ nghĩa tư bản
đương thời, từ phát hiện tính quy luật của lịch sử xã hội loài người và từ cả
thái độ nhân văn trước hiện thực tăm tối về sự thống khổ của người lao động dưới
ách áp bức, bóc lột của chủ nghĩa tư bản, C. Mác, Ph. Ăngghen dự báo về một xã
hội cộng sản tương lai như một tất yếu lịch sử sẽ thay thế chủ nghĩa tư bản.
Cần nói rằng, những
gì chủ nghĩa tư bản hiện đại đang thể hiện vẫn không đi ra ngoài tính quy luật
mà chủ nghĩa Mác Lênin đã chỉ ra, càng minh chứng cho tính đúng đắn của chủ
nghĩa Mác - Lênin. Sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất dưới tác động
của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, một mặt tăng thêm tiềm lực cho chủ
nghĩa tư bản; mặt khác, nó càng thúc đẩy nhanh hơn quá trình xã hội hóa của lực
lượng sản xuất, dẫn đến những thay đổi chóng mặt về quy mô, tính chất của quan
hệ sở hữu, quản lý, điều hành sản xuất và phân phối của cải xã hội. Quá trình
toàn cầu hóa xuất phát trước tiên từ nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, nói cho cùng
cũng như cái “áo” trong khung khổ từng quốc gia đã quá chật hẹp, buộc phải nới
ra trên phạm vi toàn thế giới. Sự áp bức, bóc lột của chủ nghĩa tư bản theo đó
cũng mở rộng mạnh mẽ ra ngoài chính quốc. Sự bóc lột ấy, về bản chất, chẳng
khác gì hành vi xâm lược thuộc địa của các đế quốc - tư bản chủ nghĩa trước
đây, chỉ có điều nó được che đậy dưới lớp vỏ hào nhoáng, mỹ miều hơn, nó đi vào
các quốc gia nghèo khó bằng cửa chính và bóc lột người lao động bằng những lề
luật văn minh, sạch sẽ hơn.
Càng giàu mạnh, các
thế lực tư bản càng hung hăng, tìm mọi cách để chiếm đoạt các nguồn tài nguyên,
của cải của thế giới, chinh phục các quốc gia nghèo khó, yếu thế nhằm phục vụ
cho lợi ích của mình. Cuộc chiến tranh Irắc đã đẩy một quốc gia hòa bình vào cuộc
chiến đẫm máu, huynh đệ tương tàn suốt hơn một thập niên, đến nay vẫn chưa thấy
lối ra. Lý do để phát động cuộc chiến tranh chống lại một dân tộc có chủ quyền,
độc lập cách xa nước Mỹ hàng vạn cây số là tàng trữ “vũ khí giết người hàng loạt”,
nhưng không hề tìm thấy. Trên thực tế, thì chính nước Mỹ đang tàng trữ lượng vũ
khí hạt nhân đủ phá hủy nhiều lần cuộc sống của nhân loại trên toàn cầu. Đất nước
Libi hòa bình cũng trở thành hỗn loạn sau khi Mỹ và các đồng minh phương Tây
can thiệp lật đổ chính quyền dân cử M. Cadaphi. Cho dù Tổng thống Mỹ và Thủ tướng
Anh đã xin lỗi nhưng điều ấy có nghĩa gì khi đất nước Irắc và Libi đã tan
hoang, hàng vạn người dân lành ở đó đã chết, hàng triệu người dân đang sống
trong những điều kiện tồi tệ nhất[1]. Vậy lý do cuộc chiến Irắc
là gì nếu không phải là dầu mỏ và lợi ích của những ông chủ, các nhà tư bản Mỹ?
Một loạt cuộc cách mạng màu do bàn tay Mỹ và các nước phương Tây phát động ở
Libi, Xyri,... đều có chung một hình thái bên ngoài, mục đích ẩn giấu bên trong
và hậu quả tồi tệ không khác gì với cuộc chiến ở Irắc.
Mặt khác, nếu nhìn nhận
từ góc độ nhân văn, thì chủ nghĩa xã hội là ước vọng ngàn đời của tất cả những
người dân lao động, của những con người có lương tâm cùng tình thương nhân loại,
muốn sống trong hòa bình, nhân ái. C. Mác và Ph. Ăngghen đã phát triển chủ
nghĩa xã hội từ không tưởng trở thành khoa học khi nhìn nhận nó từ quy luật vận
động của lịch sử, như sự vận động tất yếu từ những cơ sở xã hội, những yếu tố
kinh tế, vật chất vốn đã được hình thành ngay trong lòng chủ nghĩa tư bản. Như
vậy, chủ nghĩa xã hội là phù hợp và hợp lý cả về phương pháp luận khoa học và
tính mục đích nhân văn.
Với tính chất là một
học thuyết khoa học, những người khai sinh ra chủ nghĩa Mác - Lênin chưa bao giờ
muốn và chưa có bất cứ một mệnh đề phán đoán nào để quy các luận điểm trong học
thuyết của mình về cách mạng xã hội hay về xã hội cộng sản chủ nghĩa tương lai
thành những tín điều siêu hình, cứng nhắc. Trong tác phẩm Sự phát triển của chủ
nghĩa xã hội từ không tưởng đến khoa học, Ph. Ăngghen đã rất khách quan, khoa học
khi luận giải rất tường minh quá trình chủ nghĩa xã hội từ không tưởng trở
thành khoa học, đồng thời yêu cầu những người cộng sản rằng, khi “chủ nghĩa xã
hội đã trở thành một khoa học mà ngày nay, vấn đề trước hết là phải nghiên cứu
thêm, trong mọi chi tiết và mọi mối liên hệ của nó”2.
Trong rất nhiều tác
phẩm, C. Mác và Ph. Ăngghen đều nhấn mạnh tầm quan trọng của nhận thức, đánh
giá, tổng kết thực tiễn để thường xuyên bổ sung, phát triển lý luận, nhất là lý
luận về con đường hiện thực hóa chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Ở lời tựa
viết cho bản tiếng Đức Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản xuất bản năm 1872, C. Mác
và Ph. Ăngghen đã viết rằng: “Chính ngay “Tuyên ngôn” cũng đã giải thích rõ rằng
bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, việc áp dụng những nguyên lý đó cũng phải tùy
theo hoàn cảnh lịch sử đương thời...”3. Quan điểm lịch sử - cụ thể
và quan điểm phát triển cũng luôn được V.I. Lênin quán triệt vận dụng trong nhiều
nhận thức thực tiễn để giải quyết mối quan hệ gắn bó giữa lý luận với thực tiễn.
Chính sách kinh tế mới chính là một dẫn chứng thực tế sáng rõ về quan điểm đó.
Chính VI. Lênin đã có một định nghĩa đầy tính thực tiễn về chủ nghĩa xã hội mà
lâu nay đôi khi những người hậu thế đã bỏ quên hoặc bảo thủ với những định kiến
mà không nhìn nhận một cách đúng đắn và nghiêm túc. Người nói: “Dùng cả hai tay
mà lấy những cái tốt của nước ngoài: Chính quyền xô-viết + trật tự ở đường sắt
Phổ + kỹ thuật và cách tổ chức các tơ-rớt ở Mỹ + ngành giáo dục quốc dân Mỹ
etc. etc. + + = E = chủ nghĩa xã hội”[2]. Nhận định của V.I. Lênin
từ gần 100 năm trước vẫn còn nguyên giá trị phương pháp luận đối với chúng ta
hiện nay, nhất là trong điều kiện toàn cầu hóa.
Vậy thì tại sao có thể
nói rằng chủ nghĩa Mác - Lênin là lỗi thời. Xin thưa rằng, chủ nghĩa Mác -
Lênin không thể lỗi thời mà chính những người cố tình phủ nhận chủ nghĩa Mác -
Lênin mới là những người nhầm lẫn, sai lầm, cố tình không nhìn thấy bản chất
khoa học và nhân văn của chủ nghĩa Mác - Lênin. Hoặc giả, họ đã cố tình xuyên tạc
chủ nghĩa Mác - Lênin vì một lý do chính trị, vì muốn xóa bỏ chủ nghĩa Mác -
Lênin để bảo vệ cho chủ nghĩa tư bản và quyền lợi của một nhóm người tư bản, hoặc
được hưởng lợi không chính đáng từ guồng máy của chủ nghĩa tư bản. Nếu có lỗi
thời chăng, thì chính là lỗi thời ở cách mà chúng ta chưa nghiên cứu đủ sâu sắc,
chưa vận dụng chủ nghĩa Mác Lênin một cách đúng đắn vào thực tiễn để giải quyết
các vấn đề trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội mà thôi. Tuyệt nhiên không
thể là sự lỗi thời của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Về lý do thứ hai, sự
sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu phải chăng
như một bằng chứng hiển nhiên của sự sai lầm, lỗi thời của chủ nghĩa Mác -
Lênin và cùng với nó là con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Phải chăng có một
logic thực tế là chủ nghĩa xã hội hiện thực sụp đổ là do lý thuyết về chủ nghĩa
xã hội là sai lầm?
Trước hết, cần phải
nói rằng, mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực trên thực tế đã mang lại sự thay đổi
rung trời chuyển đất, tạo ra một mảng sáng không thể phủ nhận ở Liên Xô, Đông Âu
và một loạt nước trên thế giới. Nó đã mang lại cuộc sống tốt đẹp cho một phần
to lớn của nhân loại. Nó đã tạo nên một sức mạnh to lớn mà trước đó không thể
tưởng tượng về nguồn lực vật chất và tinh thần, đủ sức để động viên sức người,
sức của, tạo thành lực lượng chủ yếu đánh thắng những lực lượng to lớn của liên
mình các thế lực tư bản cũng như đội quân phátxít tàn bạo của trục ma quỷ trong
Chiến tranh thế giới thứ hai. Thực tế sinh động từ những thành tựu tốt đẹp của
các nước xây dựng chủ nghĩa xã hội đã động viên, thúc đẩy cuộc đấu tranh vì tự
do, dân chủ, hòa bình, giải phóng dân tộc trên toàn thế giới. Hàng loạt dân tộc
bị áp bức đã giành được độc lập, tự do dưới ảnh hưởng và sự giúp đỡ vô tư của
các nước xã hội chủ nghĩa do Liên Xô dẫn đầu. Chính chủ nghĩa xã hội và cuộc đấu
tranh rộng lớn, mạnh mẽ của nhân dân lao động trên toàn thế giới đã là động lực
thúc đẩy, buộc các thế lực tư bản, đế quốc phải, một mặt thừa nhận quyền tự do,
độc lập của các dân tộc trong hệ thống thuộc địa rộng lớn của chủ nghĩa tư bản
thực dân, đế quốc; mặt khác, tạo thành sức ép, buộc các thế lực tư bản có những
cải cách xã hội, cải thiện đời sống của nhân dân lao động ở chính quốc. Chủ
nghĩa xã hội đã là một hiện thực hùng mạnh đủ để những chiến lược gia, các nhà
lý luận tư sản phải run sợ, đã đưa ra những dự báo về sự thất bại, kết thúc
không thể đảo ngược của chủ nghĩa tư bản. Những thừa nhận cay đắng của H.
Kitsingiơ, Z. Brêginxki, thời kỳ những năm 60, 70 của thế kỷ XX, vẫn còn nguyên
đó trong các cuốn sách, bài báo của họ.
Tất nhiên, sự sụp đổ
của mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu đã là một bài học
đau đớn không chỉ cho những người cộng sản, mà còn cho cả nhân loại tiến bộ. Đó
là kết quả của sự bảo thủ, không nhìn thẳng vào thực tế, chậm đổi mới nhận thức
và đổi mới các chính sách như những giải pháp cần thiết để giải quyết những vấn
đề nảy sinh từ thực tiễn như những mâu thuẫn tất yếu nảy sinh trong quá trình
xây dựng và phát triển đất nước. Đó cũng chính là sự sai lầm do những người cộng
sản ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa trước đây mắc phải do không nhận thức
đúng đắn những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin về tính biện chứng và
quan điểm lịch sử cụ the trong quá trình lãnh đạo cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa, đã do cố chấp và thiên kiến mà bỏ qua bài học phương pháp luận quý báu của
V.I. Lênin, không “Dùng cả hai tay mà lấy những cái tốt của nước ngoài” để xây
dựng, phát triển chế độ xã hội chủ nghĩa.
Mặt khác, sự sụp đổ của
mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu chỉ là sự sụp đổ của một
mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội cụ thể không hơn, không kém. Tuyệt nhiên đó
không phải là sụp đổ của một học thuyết khoa học, càng không thể là sự sụp đổ về
một tương lai tốt đẹp mà nhân loại tiến bộ đang hướng tới. Điều ấy không chỉ được
minh chứng bằng việc ngay ở thời điểm hiện nay, một loạt nước ở tây bán cầu
ngay cận kề nước Mỹ đang tìm tòi con đường và cách thức để xây dựng chủ nghĩa
xã hội theo một mô hình mới. Nó cũng được minh chứng bởi một loạt quốc gia ở
chính châu Âu, nhất là Bắc Âu đã và đang lấy chủ nghĩa xã hội làm mục đích và cảm
hứng để xây dựng, phát triển đất nước mình. Không phải không có lý do, khi họ tự
gọi mình là mô hình chủ nghĩa xã hội phúc lợi. Đương nhiên còn một minh chứng
hiện hữu là một số nước kiên trì đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, trong đó
có Việt Nam đã đạt được những thành tựu có tính lịch sử trong xây dựng, phát
triển.
Từ tất cả thực tế ấy,
không thể nói rằng mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước khác sụp đổ
trong những năm cuối thế kỷ trước có nghĩa là học thuyết Mác - Lênin về chủ
nghĩa xã hội là sai lầm và lỗi thời! Ngược lại, sẽ là ảo tưởng khi nghĩ rằng chủ
nghĩa tư bản đang thắng thế. Thực tế đang chỉ ra rằng, chính chủ nghĩa tư bản
đang đứng trước những thánh thức đầy nguy hiểm. Chính sự mâu thuẫn lợi ích, căn
bệnh bản chất của chủ nghĩa tư bản đang làm nảy sinh sự chia rẽ khó tránh khỏi
trong các liên minh tưởng chừng bền vững của họ. Hiện tượng Brexit của nước Anh
chỉ là một dấu hiệu đầu tiên và tất yếu của sự khục khặc từ chính trong lòng của
nó khi chủ nghĩa tư bản ở Tây Âu mất đi đối trọng là khối các nước xã hội chủ
nghĩa. Khi không còn phải đối mặt với nguy cơ từ bên ngoài thì những mâu thuẫn
không thể tránh khỏi về lợi ích sẽ hiện nguyên hình, phá vỡ mối liên kết yếu ớt
của các thế lực tư bản chủ nghĩa. Mặt khác, những cuộc khủng bố đã hiện diện
ngay trung tâm của châu Âu, đe dọa không chỉ an ninh mà tạo nên sự bất ổn sống
còn của chế độ tư bản chủ nghĩa.
Về lý do thứ ba, sự
hơn hẳn về điều kiện vật chất, trình độ phát triển về kinh tế, khoa học - công
nghệ và một số lĩnh vực khác của các nước tư bản phát triển so với các nước đi
theo con đường xã hội chủ nghĩa hiện nay, phải chăng đã minh chứng cho tính ưu
việt của chủ nghĩa tư bản? Đúng là không ai có thể phủ nhận một thực tế là các
nước tư bản chủ nghĩa phát triển đã có được những thành tựu phát triển về kinh
tế, khoa học và công nghệ kéo theo những cải thiện nhất định về điều kiện sống
của người dân. Nhưng đó mới chỉ là cách nhìn thực tại, phiến diện, không thấy
đằng sau và phía trước của sự phát triển ấy là gì?
Trước hết, cần phải
nhìn cho rõ những thành tựu đó do đâu mà có. Chủ nghĩa tư bản đã có nhiều trăm
năm phát triển. Trên con đường phát triển của chủ nghĩa tư bản, bánh xe vận
hành của nó đã lăn đi trong ngập ngụa máu và nước mắt của nhân loại cần lao, thống
khổ trên khắp các lục địa. “Những nước tư bản hiện đại là kết quả của một lịch
sử nô dịch, diệt chủng, bạo lực và bóc lột một cách ghê tởm”[3], đó là lời tự thú có tính
chất phản tỉnh của Terry Eagleton - một học giả người Anh. Chỉ cần mở lại các
trang lịch sử của nước Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Hà Lan, Tây Ban Nha... sẽ thấy ngay
những gì mà chế độ tư bản đã hành xử với đồng loại của mình. Những kẻ thực dân
từ cựu lục địa châu Âu đã phá vỡ cuộc sống bình yên hàng nghìn năm của các bộ tộc
người da đỏ, chiếm đoạt đất đai của họ bằng gươm, súng và cả sự tra tấn dã man,
rùng rợn ngoài trí tưởng tượng, bằng cách lột da đầu. Trong cuốn sách Sự tàn
sát khủng khiếp cuối thời Victoria (Late Victorian Holocausts), học giả người
Anh đã viết rằng, hàng chục triệu người Ấn Độ, châu Phi, Trung Quốc, Braxin,
Triều Tiên, Nga và nhiều nước khác đã chết do đói, hạn hán và dịch bệnh vào cuối
thế kỷ XIX dưới chế độ thực dân xâm lược. Và ngay ở chính các nước tư bản giàu
có hiện nay, có ai dám chắc mọi người dân đều có cuộc sống tốt đẹp. Hàng chục
triệu người dân Mỹ không có bảo hiểm y tế chỉ có cách chờ tử thần khi mắc bệnh.
Ở bang California, quá nửa nam giới người da đen có ít nhất một lần trong đời
phải đi tù...
Làm sao, là người Việt
Nam mà ai đó có thể quên được nỗi thống khổ của nhân dân ta trong đêm trường nô
lệ hơn 80 năm dưới ách đô hộ của chủ nghĩa tư bản thực dân Pháp? Bao nhiêu người
dân Việt Nam đã chết trong các xưởng máy, hầm lò, trên các cung đường, các bến
tàu. Những cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Trung Trực, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa
Thám, Yên Bái, Xôviết Nghệ - Tĩnh... bị dìm trong bể máu. Hơn hai triệu người
chết đói năm 1945. Thực dân Pháp bóc lột người dân thuộc địa Việt Nam đến tận
xương tủy, vơ vét từ vàng, than, sắt, đồng cho đến cả phân bắc để mang về làm
giàu cho chính quốc. Gần 20 năm, đế quốc Mỹ thay chân đế quốc Pháp thiết lập nền
thống trị, giày xéo đất nước ta. Những nhà tù địa ngục trần gian ở Côn Đảo, Phú
Quốc..., những vụ tàn sát ở Thái Bình (Bình Định) năm 1966, Bình Hòa (Quảng
Ngãi) năm 1966, Mỹ Lai (Quảng Ngãi) năm 1968,... vụ B52 ném bom rải thảm khu phố
Khâm Thiên, Bệnh viện Bạch Mai (Hà Nội), phải chăng đó không phải là tội ác thấu
trời của chế độ tư bản Mỹ? Ngỡ tưởng, không phải nhìn đâu xa, chính những trang
lịch sử khắc nghiệt và đau thương ấy đã đủ để cho các thế hệ chúng ta và con
cháu chúng ta hiểu được bản chất của chủ nghĩa tư bản! Vậy mà lạ lùng thay, vẫn
có người bước ra khỏi biên giới đã hết lời khen hay, khen đẹp cho các nước tư bản,
cho các thành phố hào hoa Tây Âu. Họ có biết đâu hoặc cố tình không biết rằng
những thành phố đó đã trải qua mấy trăm năm xây dựng bằng sức lao động của bao
thế hệ người lao động và cả của cải bóc lột từ các thuộc địa mang về.
Việc xây dựng chế độ
xã hội chủ nghĩa là công việc rất khó, mang tính khoa học, có tính quy luật,
đòi hỏi thời gian, nguồn lực, sự lãnh đạo chính trị đúng đắn và các điều kiện
không thể thiếu khác. Theo V.I. Lênin, giai cấp công nhân và nhân dân lao động
đã giành được chính quyền, bước vào xây dựng xã hội mới xã hội xã hội chủ
nghĩa, “... có một nhiệm vụ căn bản khác được đề lên hàng đầu, đó là: thiết lập
một chế độ xã hội cao hơn chủ nghĩa tư bản, nghĩa là nâng cao năng suất lao động
và do đó (và nhằm mục đích đó) phải tổ chức lao động theo một trình độ cao hơn”[4]. Năng suất lao động là một
dấu hiệu quan trọng để xác định sự thắng thế của chủ nghĩa xã hội đối với chủ
nghĩa tư bản. Thế nhưng, cũng theo V.I. Lênin, nâng cao năng suất lao động là
nhiệm vụ khó khăn, cần nhiều thời gian. Người so sánh rằng chỉ cần vài ngày có
thể giành được chính quyền, vài tuần có thể dẹp tan được sự phản kháng quân sự
của giai cấp bóc lột, nhưng “... vô luận thế nào... cũng phải mất nhiều năm mới
giải quyết được vững chắc nhiệm vụ nâng cao năng suất lao động”. Trong khi đó,
Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, tất cả đều có điểm xuất phát là
các nước tư bản có trình độ phát triển thấp hoặc trung bình. Thời gian xây dựng
chế độ xã hội chủ nghĩa hầu như còn rất ngắn. Liên bang Xôviết (Liên Xô) được
thành lập và bắt tay xây dựng chủ nghĩa xã hội năm 1921, khi vừa ra khỏi cuộc nội
chiến. Mới chỉ có chưa đầy 20 năm hòa bình xây dựng, Liên Xô đã phải trải qua
Cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại với sự tàn phá vô cùng nặng về sức người và sức
của. Hơn 20 triệu người chết, hàng loạt thành phố, làng mạc từ biên giới với Ba
Lan cho đến phía tây Mátxcơva bị san phẳng. Từ sau năm 1945, Liên Xô chỉ có hơn
30 năm xây dựng trong hòa bình đồng thời phải đối mặt với cuộc chạy đua vũ
trang do Mỹ và phe đế quốc khởi xướng. Tương tự như vậy, các nước xã hội chủ
nghĩa ở Đông Âu cũng chỉ có xấp xỉ 30 năm hòa bình xây dựng. Nhưng những thành
tựu mà các nước này đạt được là vô cùng to lớn, thậm chí có lĩnh vực vượt qua cả
Mỹ và các nước tư bản Tây Âu. Ngoài việc thiết lập cuộc sống công bằng, cải thiện
nhanh chóng về nhà ở, giáo dục, văn hóa cho nhân dân, Liên Xô còn đi đầu thế giới
về khoa học công nghệ vũ trụ. Vào thời hoàng kim, Cộng hòa dân chủ Đức là quốc
gia đảm bảo điều kiện sống cho trẻ em tốt nhất thế giới. Một yếu tố không thể
không nhắc tới, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu đã trở thành đối
thủ chính trị không đội chung trời của chủ nghĩa tư bản ở các nước phương Tây.
Người dân các nước phương Tây và các dân tộc thuộc địa nhìn vào các nước xã hội
chủ nghĩa như tấm gương, niềm hy vọng cho cuộc đấu tranh giành tự do, độc lập,
đòi dân chủ, dân sinh. Các thế lực tư bản chủ nghĩa nhìn vào đó như mục tiêu
phá hoại phải loại bỏ bằng được. Cho đến hôm nay, khi Chiến tranh lạnh đã lùi
xa hơn 25 năm, nhưng hầu như cách ứng xử trước đây vẫn còn nguyên trong những
trừng phạt kinh tế mà các nước tư bản phương Tây nhằm vào nước Nga.
Đối với Việt Nam,
chúng ta bắt tay vào xây dựng đất nước thống nhất theo con đường xã hội chủ
nghĩa sau một cuộc chiến tranh tàn khốc kéo dài suốt 30 năm. Ngay sau đó, chúng
ta lại phải đối mặt với cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và cuộc chiến tranh
biên giới phía Bắc. Trên thực tế, đất nước chỉ ra khỏi tình trạng chiến tranh từ
năm 1989. Chúng ta bắt tay vào xây dựng đất nước từ con số không khi tất cả những
gì có được sau mấy năm hòa bình xây dựng ngắn ngủi đã bị tàn phá hoàn toàn. Hơn
thế nữa, hậu quả chiến tranh vô cùng nặng nề. Hàng triệu thương, bệnh binh, người
già, trẻ em không nơi nương tự. Đồng ruộng đầy bom, đạn, mìn còn lại. Những gì
chúng ta có được hôm nay sau 30 năm xây dựng là đáng trân trọng, đáng tự hào, mặc
dù chưa phải đã được như mong đợi. Đương nhiên là không thể so sánh với các nước
tư bản đã có mấy trăm năm phát triển mà không cần quan tâm đến sự thống khổ, hy
sinh của lớp lớp người lao động thuộc địa và ở chính quốc. Tuy nhiên, công việc
xây dựng một xã hội mới chưa từng có tiền lệ, không bao giờ là dễ dàng, có tính
quy luật của nó, không thể xong trong thời gian ngày một, ngày hai, không thể đốt
cháy giai đoạn.
Như vậy, rõ ràng là
sai lầm khi chỉ nhìn vào bề ngoài những gì đang có ở các nước tư bản phát triển
để so sánh đánh giá tính ưu việt của chế độ tư bản chủ nghĩa so với chế độ xã hội
chủ nghĩa. Chỉ có bằng sự phân tích sâu sắc, toàn diện, bằng cách nhìn công bằng,
lịch sử mới thấy được nguồn gốc, bản chất của sự giàu có của các nước tư bản
phát triển, mới thấy hết được những thành công và đóng góp to lớn của chủ nghĩa
xã hội cho sự phát triển của nhân loại và tiến bộ xã hội.
Về lý do thứ tư, phải
chăng sự bảo thủ, trì trệ trong nhận thức, những sai lầm, hạn chế và khó khăn
trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa
là bắt nguồn từ chủ nghĩa Mác - Lênin?
Trước hết, chúng ta
không hề giấu giếm những sai lầm, hạn chế và khó khăn trong quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa XI trình bày tại Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Tăng trưởng kinh tế thấp
hơn 5 năm trước, không đạt mục tiêu đề ra; năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức
cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp... Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tệ quan
liêu, tham nhũng, lãng phí chưa bị đẩy lùi... Dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh
đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ; kỷ cương, kỷ luật chưa
nghiêm...”[5]. Đảng cũng nghiêm khắc thừa
nhận rõ rằng, tình trạng trên có những nguyên nhân khách quan nhưng “trực tiếp
và quyết định nhất là nguyên nhân chủ quan”. Đó là những hạn chế trong đánh
giá, dự báo tình hình, trong nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, trong công
tác lãnh đạo, quản lý của các cấp ủy, chính quyền, v.v…
Việc có những sai lầm,
khuyết điểm, khó khăn, hạn chế trong quá trình xây dựng đất nước âu cũng là khó
tránh khỏi. Xây dựng chủ nghĩa xã hội là công việc vô cùng khó khăn, phức tạp,
có tính khoa học, đòi hỏi thời gian, nguồn lực to lớn. Chúng ta bắt tay vào xây
dựng chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bị tàn phá nặng nề sau
cuộc chiến tranh khốc liệt kéo dài suốt 30 năm. Cái khó khăn lớn nhất của chúng
ta có lẽ trước hết không chỉ từ sự thiếu thốn về của cải, vật chất mà đa phần
chính là ở lối nghĩ, tác phong mang nặng tính chất của nền văn hóa nông nghiệp.
Không có kinh nghiệm tiền lệ, không có sự hỗ trợ của phe xã hội chủ nghĩa như
trước đây. Nhiều thế lực đang dòm ngó, chống phá. Trong điều kiện ấy, những
thành tựu mà công cuộc đổi mới đạt được là đặc biệt quan trọng. Chúng ta đã duy
trì tốc độ tăng trưởng GDP cao trên 6,5% trong suốt 30 năm thực hiện chính sách
đổi mới. Từ GDP bình quân đầu người chỉ 80 USA đã tăng lên mức trên 2.100 USD.
Đời sống nhân dân đã được cải thiện một bước cơ bản. Những điều đó là không thể
phủ nhận và mặc nhiên đã được nhiều tổ chức, cá nhân trên thế giới, trong đó có
nhiều học giả phương Tây thừa nhận.
Để
có được những thành tựu to lớn đó, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã có những bước
đi dũng cảm về nhận thức, đổi mới mạnh mẽ về chính sách kinh tế - xã hội. Từ một
nền kinh tế bao cấp hoàn toàn dựa trên sở hữu công cộng, chúng ta đã chuyển
sang xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, rồi chuyển hẳn sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ một nhà nước xây dựng theo
mô hình nền chuyên chính vô sản, chúng ta đã chuyển sang xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa. Từ chỗ bị bao vây cấm vận, chỉ có quan hệ với các nước
thuộc khối xã hội chủ nghĩa là chủ yếu, chúng ta đã mở cửa hội nhập quốc tế,
thiết lập quan hệ ngoại giao với 185 quốc gia và vùng lãnh thổ trên tổng số 193
thành viên Liên hợp quốc, trong đó có 2 đối tác toàn diện đặc biệt, 15 đối tác
chiến lược, 11 đối tác toàn diện, 2 đối tác chiến lược theo từng lĩnh vực.
Từ thực tế ấy, không
thể có lý gì để nói rằng Đảng và Nhà nước Việt Nam bảo thủ, cố chấp hay định kiến
mà không đổi mới nhận thức, đổi mới chính sách về chủ nghĩa xã hội và xây dựng
chủ nghĩa xã hội, cũng như không thể đổ cho học thuyết Mác - Lênin có lỗi trong
những khó khăn, hạn chế, sai lầm của quá trình xây dựng, phát triển đất nước.
*
Tóm lại, sự sai lầm của
những người phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin thể hiện ngay trong chính những cơ sở,
lý do để họ phản bác chủ nghĩa Mác - Lênin. Ở đây, hoặc là có sự hiểu nhầm về
tính chất của học thuyết - chủ nghĩa Mác - Lênin, hoặc là biết vậy nhưng vẫn cố
tình xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin với định kiến và mục đích chính trị là
thay đổi nền tảng tư tưởng, đường lối, mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội bằng
một lý thuyết khác, bằng một mô hình xã hội khác. Mục đích ấy đơn thuần chỉ để
phục vụ cho lợi ích của một nhóm người nào đó, hoàn toàn không phải vì lợi ích
của tuyệt đại đa số nhân dân, không phải vì lợi ích chung của dân tộc.
Song việc nghiên cứu,
chỉ ra những sai lầm, xuyên tạc đối với chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ đơn thuần
là để bảo vệ sự trong sáng, tính khoa học, nhân văn của chủ nghĩa Mác Lênin. Đó
còn là sự cảnh báo, là lý do để những người cộng sản cảnh giác với nhận thức của
mình về chủ nghĩa Mác - Lênin, để tìm hiểu rõ hơn, quán triệt sâu sắc, thường
xuyên hơn quan điểm thực tiễn, quan điểm lịch sử - cụ thể khi vận dụng chủ
nghĩa Mác - Lênin vào việc đề ra đường lối, hoạch định chính sách xây dựng,
phát triển đất nước.
[1].
Ngày 10/4/2016, khi trả lời phỏng vấn hãng tin Fox News, Tổng thống Mỹ B. Obama
đã thừa nhận rằng, sai lầm tồi tệ nhất trong nhiệm kỳ tổng thống của ông là đã
không chuẩn bị một kế hoạch lâu dài cho Libi sau khi lật đổ Tổng thống M.
Cadaphi, để gây nên tình trạng hỗn loạn ở nước này. Năm 2015, cựu Thủ tướng Anh
T. Blair cũng đã thừa nhận sai lầm và xin lỗi về việc đưa quân đội Anh tham gia
cuộc chiến ở Irắc.
2. 3. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 1995, t.19, tr.305; t.18, tr.128.
[2].
V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, t.36, tr.684
[3].
Terry Eagleton: Tại sao Mác đúng?, Nxb. Chính trị - Hành chính, Hà Nội, 2012,
tr.40.
[4].
V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, t.36, tr.228-229, 229.
[5].
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn
phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.60-61.