Triết lý nhân sinh và hành động của Hồ Chí Minh

 


Nếu triết học biểu đạt tư tưởng bằng một hệ thống luận, bằng các khái niệm, phạm trù mang tính khái quát trừu tượng khoa học rất cao thì triết lý lại thiên về tổng kết, đúc rút từ những kinh nghiệm sống trực tiếp, những sự trải nghiệm của con người trong đời sống cá nhân và xã hội thành các kết luận, các châm ngôn, có ý nghĩa đạo đức, lối sống, lẽ sống.

 tưởng luận triết học trình bày các quan điểm, quan niệm về bản thể và nhận thức, đó là thế giới quan và lý luận nhận thức, là khoa học và duy lý. Triết lý lại bàn nhiều hơn về nhân sinh quan, về đạo làm người. Tư tưởng triết lý cũng không kém phần sâu sắc, thâm thúy, nó ẩn sâu trong những tổng kết và so sánh, gợi mở những suy ngẫm và liên tưởng, thông qua nhũng chắt lọc kinh nghiệm.

Hồ Chí Minh với vốn sống và kinh nghiệm vô cùng phong phú trong trường đời hoạt động cách mạng, trong tiếp xúc với mọi người thuộc mọi giai tầng, mọi tầng lớp, mọi đối tượng không chỉ với đồng bào mình và nước mình mà còn đối với các dân tộc khác, các nước khác nên triết lý Hồ Chí Minh phong phú, sâu sắc và tinh tế. Có thể nói, triết lý là một hình thức độc đáo và nổi bật trong sự biểu đạt tư tưởng Hồ Chí Minh. Mọi lĩnh vực của đời sống xã hội đều được Người chú trọng như nhau, ngang nhau, không xem nhẹ một lĩnh vực nào, hơn nữa triết lý của Người thấm vào các lĩnh vực đó, được lý luận hóa, thành tư tưởng triết học, đặc biệt là triết học nhân sinh. Trong hoạt động và trong ứng xử của con người, Hồ Chí Minh chú trọng tới các quan hệ, các lớp quan hệ - với tự mình, với người, với việc, với đoàn thể. Thông qua các mối quan hệ đó, Người chú trọng tới triết lý của nó và về nó.

Cách mạng là vấn đề lớn lao, hệ trọng, được các nhà tư tưởng lý luận xác lập thành học thuyết. Vậy mà Hồ Chí Minh đề cập tới tư tưởng cách mạng một cách dung dị, giản dị hóa nó thành ra triết lý. Người nói cách mạng là phá cái cũ lạc hậu, lỗi thời, đổi ra cái mới tốt tươi, tiến bộ. Quan niệm hay định nghĩa ấy mang tính triết lý. Người còn nói, muốn cách mạng trong xã hội, trước hết phải cách mạng chính bản thân mình đã. Đó là một triết lý.

Ngày nay, Đảng khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới, việc vận dụng triết lý của Người trở nên cần thiết, có ý nghĩa sâu sắc không chỉ đối với hiện tại mà còn đối với sự phát triển trong tương lai.

- Trong Di chúc, Người căn dặn chúng ta, xây dựng đất nước sau chiến tranh có nhiều việc phải làm, phải có chương trình kế hoạch thật cụ thể, chu đáo, phải chủ động tránh rơi vào bị động, thiếu sót, sai lầm. Người nhấn mạnh, trước hết nói về Đảng, trong Đảng phải giữ gìn sự đoàn kết thống nhất như giữ gìn con ngươi của mắt mình. Công việc đầu tiên là công việc với con người. Người quan tâm tới cuộc sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tới các tầng lớp, các đối tượng các thế hệ, không sót một ai. Những trích dẫn vừa nêu trên trong Di chúc là triết lý của Người. Tình thương yêu của Người với dân, với Đảng càng thể hiện triết lý của Người là một triết lý nhân sinh và hành động. Đó là triết lý sống vì dân.

... Người hình dung những công việc phải làm, tức là thực hiện đổi mới toàn diện các lĩnh vực như chúng ta nói hiện nay, đó thực sự là một cuộc chiến đấu khổng lồ giữa những cái mới mẻ, tốt tươi, tiến bộ với những cái cũ kỹ, lỗi thời, lạc hậu, những cái xấu xa, hư hỏng. Phải động viên sức dân, tập hợp lực lượng nhân dân, tổ chức các phong trào của dân để thực hiện. Đó là sự nghiệp của toàn dân. Cán bộ, đảng viên phải tiên phong, gương mẫu để dân noi theo. Theo đó, Đảng phải tự đổi mới chính mình để thúc đẩy đồi mới xã hội. Đó là điều cần thiết, thiết thực nhất tỏ rõ Đảng vận dụng thực hành triết lý Hồ Chí Minh.

Người cũng ý thức sâu sắc rằng theo đuổi một cái mới tiến bộ và từ bỏ một cái cũ lạc hậu, đó là cả một cuộc đấu tranh phức tạp, nhất là trong tâm lý, ý thức con người, bởi nó đụng chạm tới nhận thức và thói quen.

Người đã từng nói: “Thói quen rất khó đổi. Cái tốt mà lạ, người ta có thể cho là xấu. Cái xấu mà quen người ta cho là thường”[1].

Do đó: “Thói quen và truyền thống lạc hậu cũng là kẻ địch to; nó ngấm ngầm ngăn trở cách mạng tiến bộ. Chúng ta lại; thể trấn áp nó, mà phải cải tạo nó một cách rất cẩn thận, rất chịu khó, rất lâu dài”[2].

“Chúng ta phải thay đổi triệt để những nếp sống, thói ý nghĩ và thành kiến có gốc rễ sâu xa hàng ngàn năm”[3].

Đối với Việt Nam, con đường giải phóng để phát triển, đó là con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đi tới đích trên con đường đó, Người nhận rõ: “... tiến lên chủ nghĩa xã hội, không thể một sớm một chiều. Đó là cả một công tác tổ chức và giáo dục”[4].

Như vậy, triết lý Hồ Chí Minh, triết lý nhân sinh và hành động vì dân, thực chất là một triết lý phát triển. Giải phóng để thực hiện phát triển mà phát triển vì cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn, vì mỗi một người dân của dân tộc Việt Nam, cũng vì tất cả mọi người trên trái đất, vì nhân loại.

Như đã nói, chữ DÂN là điểm quy tụ tất cả mọi suy tư, mọi hành động trong sự nghiệp Hồ Chí Minh, là tất cả trong cuộc đời Hồ Chí Minh. Trong ngôn ngữ Hồ Chí Minh, trong bảng từ vựng của Người, chữ DÂN được sử dụng nhiều nhất, có tần số lớn nhất. Người nhắc tới đạo làm người, Người tìm thấy Đường cách mạng cũng là để vạch ra chương trình hành động vì dân. Bởi thế, Người dành trọn cuộc đời và sự nghiệp để thực hành triết lý thân dân và chính tâm, vừa noi theo đạo thánh hiến, vừa nâng cao lên, vươn tới tầm thời đại và hiện đại, đem vào triết lý truyền thống đó một trình độ phát triển mới thành ra một chất lượng nhảy vọt mới - triết lý dân chủ và đạo đức cách mạng, của Đảng cách mạng và mỗi người cách mạng.

Triết lý nhân sinh và hành động của Hồ Chí Minh là chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh - một chủ nghĩa nhân văn cộng sản. Người cộng sản Hồ Chí Minh đồng thời là nhà nhân văn chủ nghĩa trên lập trường cách mạng cộng sản, thể hiện sâu sắc tinh thần dân tộc, truyền thống và bản sắc văn hóa dân tộc, nhuần nhuyễn giữa truyền thống và hiện đại, giữa dân tộc với nhân loại.

Trong triết lý Hồ Chí Minh, Người không chỉ nhấn mạnh chữ dân mà Người còn chú trọng chữ nhân, đặc biệt đề cao tư tưởng “nhân hòa”, coi nhân hòa là gốc, là quan trọng nhất, quyết định nhất, trong mối liên hệ khăng khít với “thiên thời” và “địa lợi”, hợp thành một chỉnh thể: thiên thời, địa lợi, nhân hòa.

Hồ Chí Minh khi đề cập tới “nhân” và “dân”, Người thấy ở đó cả đạo đức, đó là nhân nghĩa và nhân ái, là khoan hòa, độ lượng, là tình yêu và tình thương là điều thiện, sự lương thiện, nhân tính - cả tính người (tính cách) và tình người (đã là người thì dù xấu, tốt, văn minh hay dã man, xét ra đều có tình). Chiều sâu nhân bản, nhân đạo và nhân văn ấy không phải ở đời ai cũng nhìn thấy và nhận ra. Hồ Chí Minh - con người rất mực nhân tình, đã thấy rất sâu để nhận ra rất rõ cái bản chất ấy của con người. Đó là phẩm chất của bậc minh triết ở nhà hiền triết, cốt cách Á Đông và bản sắc Việt Nam.

Triết lý Hồ Chí Minh nổi bật tính chất và nội dung đạo đức bởi Người không chỉ nhấn mạnh “nhân” với tư cách con người mà còn là đạo đức, là con người đạo đức, là đạo nhân - đạo làm người, trong đó có đạo làm tướng. Người xác định bảng giá trị đạo đức: nhân - trí - dũng - liêm - trung với nội dung chuẩn mực của đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Trong triết lý ấy, ngoài chữ nhân còn có chữ dân, được tiếp cận từ lợi ích và quyền lực, từ vai trò và địa vị của dân trong tư cách chủ thể. Dân là gốc, gốc của nước, gốc của chế độ, của giang sơn, xã tắc, của quốc gia - dân tộc, của thế giới nhân loại. Sức mạnh sâu xa, bản chất của dân là sức mạnh của người chủ và làm chủ, là tự do chứ không cam chịu làm nô lệ. Bởi thế, trong triết lý Hồ Chí Minh, dân chủ, làm chủ là điều hệ trọng cao cả, là động lực của phát triển, tiến bộ, là bảo đảm cho sự bền vững không chỉ đối với chính thể, với chủ thể cầm quyền mà còn đối với dân tộc, rộng ra với cả thế giới nhân loại. Sự nối liền không thể tách rời giữa nhân và dân cũng là thể thống nhất hữu cơ giữa con người cá thể với cộng đồng xã hội, giữa đạo đức và chính trị, giữa kinh tế với chính trị, với văn hóa, trong đó có cốt lõi đạo đức.

Bởi thế, Hồ Chí Minh không chỉ nói nhân dân mà còn nói quần chúng, đồng bào, nói dân tộc mà cũng nói nhân loại.

Trên phương diện con người và nhân cách, Hồ Chí Minh coi đức là gốc. Đức ấy chính là lòng nhân, sự nhân từ bác ái, độ lượng, vị tha. Trên phương diện chính trị, Hồ Chí Minh coi dân và địa vị làm chủ của dân là cao nhất, quý nhất và sức mạnh đoàn kết của dân là sức mạnh to lớn, quyết định nhất: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân...”[5]

“Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân... quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”[6]

Một nền chính trị dân chủ, biết tôn trọng, đề cao địa vị, vai trò của dân, biết thực hiện lợi ích vì dân, biết bảo vệ quyền làm chủ của dân thì luật pháp của Nhà nước phải thể hiện được ý chí của dân, đáp ứng lợi ích và nguyện vọng của dân, do đó phải trọng dân và trọng pháp. Một nền chính trị như thế là chính trị dân chủ, nhân nghĩa, đạo đức.

Thuận theo lòng dân, không làm trái ý dân, đó là đòi hỏi đạo đức của chính trị, đối với việc cầm quyền.

Thấu hiểu điều đó, Hồ Chí Minh và triết lý Hồ Chí Minh chủ trương đưa đoàn kết và thanh khiết vào những chuẩn mực của chính trị. Có những bảo đảm đạo đức như thế cho chính trị thì mới tránh được nguy cơ tha hóa quyền lực, mới làm cho việc chính sự và hoạt động tham chính thực hiện được triết lý nhân sinh và hành động vì dân. Đó là chỗ sâu sắc và tinh tế trong tư tưởng cũng như trong triết lý Hồ Chí Minh.

Để hình thành và thực hành triết lý ấy, Hồ Chí Minh đã nghiền ngẫm rất sâu từ những tinh hoa tư tưởng, văn hóa trong di sản của nhiều thời đại, từ nhiều ngọn nguồn cũng như tổng kết từ thực tiễn đời sống xã hội, từ những trải nghiệm của chính mình. Triết lý Hồ Chí Minh có sự kế thừa, chọn lọc từ những điểm tinh túy, những chỉ dẫn sâu sắc của Phật giáo, của Kinh dịch, của tư tưởng phương Đông nói chung cũng như của văn hóa phương Tây... thông qua năng lực sáng tạo, bản lĩnh văn hóa của Người.

Theo Hồ Chí Minh, “Đức Phật là đại từ đại bi, cứu khổ cứu nạn, muốn cứu chúng sinh ra khỏi khổ nạn, Người phải hy sinh tranh đấu, diệt lũ ác ma[7]. Thấy rõ đạo đức cao cả của Phật giáo, lý tưởng xã hội thấm sâu chất nhân văn vì con nhân lễ Phật đản, Người nói với đồng bào, trong đó có các phật tử rằng, “tôn chỉ, mục đích của đạo Phật nhằm xây dựng cuộc đời thuần mỹ, chí thiện, bình đẳng, yên vui và no ấm”[8]. Điều ấy cũng giống, cũng phù hợp với mục đích của cách mạng. Các bậc chân tu - những đại đức, hòa thượng cũng như các linh mục trong đạo Thiên Chúa dốc lòng chăm sóc phần hồn cho các giáo dân, những người cách mạng làm cách mạng để giải phóng cho dân ra khỏi ách áp bức thống trị của đế quốc thực dân, lo giành lấy độc lập để dân có tự do, lo phát triển sản xuất, kinh tế để dân được sống no ấm, yên vui, hạnh phúc. Phần xác có no đủ thì phần hồn mới thong dong được. Đức tin tôn giáo và đạo đức tôn giáo mang giá trị và ý nghĩa văn hóa. Bởi vậy đạo pháp đồng hành cùng dân tộc, trong đấu tranh cách mạng và hành trình tới chủ nghĩa xã hội. Đẹp đời tốt đạo là một sự hài hòa, hữu ích cho phát triển.

Trong Thư gửi Hội nghị đại biểu Hội Phật giáo thống nhất Việt Nam (năm 1964), Hồ Chí Minh viết: Đồng bào Phật giáo cả nước, từ Bắc đến Nam, đều cố gắng thực hiện lời Phật dạy là: “Lợi lạc quần sinh, vô ngã vị tha”, đem lại lợi ích cho mọi nhà, quên mình, vì người khác[9]. Tôn trọng tự do tín ngưỡng của dân, Người khéo léo gắn bó đạo với đời, đời với đạo, tất cả vì quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc của mỗi người dân. Người nói rõ: Phật pháp không xa rời thế gian, mọi người hãy tham gia cứu đói, diệt dốt[10]. Người theo tôn giáo hay không theo tôn giáo đều là công dân của nước Việt Nam, đều tham gia kháng chiến kiến quốc, đều thi đua yêu nước, theo lời kêu gọi toàn dân tham gia phong trào “Thi đua ái quốc”, thực hành “Ba chủ nghĩa”: dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc.

Hồ Chí Minh am hiểu thấu đáo những tinh hoa tưởng

phương Đông, đặc biệt là tư tưởng Trung Hoa cổ đại mà điển

hình là Nho giáo.

Trong Nho giáo, thời Xuân Thu chiến quốc, Quản Trọng đã từng nêu “dĩ nhân vi bản” - lấy dân làm gốc Khổng Tử đề cao “nhân giả ái nhân” - yêu người. Mặc Tử đưa ra thuyết kiêm ái.

Mạnh Tử cũng nói, dân vi quý - lấy dân làm quý. Dương Chu quan niệm con người có bản tính giống trời đất, có đức tính của ngũ hành, là loại tối linh trong vũ trụ, vạn vật, con người có sức mạnh của loại tối linh ấy, “Thân ta không phải là của ta nhưng đã có chúng rồi thì không thể diệt được”.

Trong một phép so sánh, Tuân Tử đã từng triết lý rằng nước và lửa có khí nhưng vô sinh. Có cây có sinh (sinh mệnh) nhưng vô trị. Cầm thú có trí nhưng vô lễ nghĩa. Con người có khí, có trí lại có lễ nghĩa, do vậy là giống quý nhất trong thiên hạ.

Bởi vậy, trong đạo trị nước phải chú trọng tới dân: “Dân khả cận, bất khả hạ, Dân vi bang bản, bản cổ bang minh”, nghĩa là, dân có thể gần, không thể coi thường. Dân là gốc nước, gốc có vững thì nước mới yên, chế độ mới bền vững.

Trong Kinh thi có một đúc kết: “Quốc dĩ dân vi bản” - nước lấy dân làm gốc.

Hồ Chí Minh, như đã nói, Người từ những quan niệm đó của cổ nhân để đi đến một kết luận khoa học, tiếp thu vốn cổ nhưng tư tưởng là cách mạng và hiện đại: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”[11]. Kế thừa để phát triển triết lý “thân dân” ở Hồ Chí Minh là như vậy. Đặc biệt là chữ “nhân”. Có thể so sánh hệ thống hóa của Khổng Tử và khái quát hóa của Hồ Chí Minh.

Theo Khổng Tử, chữ “nhân” có nghĩa rất rộng, đó là: yêu người, yêu rộng rãi, lợi ích chính nghĩa hơn lợi ích cá nhân, yêu người như yêu mình, mong muốn giúp người khác, coi trọng sức dân, bớt tiêu dùng để yêu thương người, nhưng quân tử cai trị, giáo hóa tiểu nhân, quân tử có trí thì lao tâm, tiểu nhân phải làm lụng, lao lực để nuôi quân tử. Sai khiến dân chúng đúng thời vụ, đó là cách trị người, quản việc. Lại lo làm giàu cho dân, sau đó giáo dục dân. Thương yêu người già, bệnh tật, nghèo khổ. Đối xử với người phải Cung - Khoan - Tín - Mẫn - Huệ...[12]

Trong học thuyết về “nhân” nói trên, Khổng Tử đã thể hiện một cái nhìn điển hình của giai cấp quý tộc thống trị, từ trên nhìn xuống, con người (nhân và dân) hoàn toàn ở vị thế bị động, thụ động. Ý thức hệ phong kiến chịu ảnh hưởng từ đó mũ nên quan niệm dân chủ là chủ của dân. Dù yêu nước và thương dân nhưng nước là của vua mà dân chỉ là thần dân chịu ơn mưa móc của bệ hạ. Hồ Chí Minh, trong triết lý về nhân, về dân và dân chủ, đã chỉ lưu giữ lại cái hình thức, dùng hình thức ấy để biểu đạt một nội dung mới, mang một hàm lượng tư tưởng mới về chất. Bằng cách đó, Hồ Chí Minh đã cách mạng hóa cả nhận thức lẫn hành động xung quanh chữ nhân, chữ dân và xác lập một quan niệm mácxít về dân chủ nhưng hoàn toàn là cốt cách Hồ Chí Minh, phong cách và bản lĩnh Hồ Chí Minh.

Người nhấn mạnh, nhân nghĩa là nhân dân. “Chúng ta phải quý trọng con người, nhất là công nhân vì công nhân là vốn quý nhất của xã hội”[13]. Người còn nói: “Phải biết quý trọng sức người là vốn quý nhất của ta”[14].

Trên lập trường giai cấp công nhân, khẳng định đó là giai cấp tiên tiến và cách mạng, thấm nhuần nguyên lý duy vật lịch sử trong triết học C.Mác và chủ nghĩa Mác, coi cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, quần chúng nhân dân làm nên lịch sử và quyết định lịch sử, Hồ Chí Minh nêu lên triết lý tin dân, quý trọng dân và thương yêu nhân dân. Trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng để giải phóng cho dân cũng như trong xây dựng kiến thiết chế độ mới phải luôn luôn chăm lo phát triển sức dân, bồi dưỡng sức dân và tiết kiệm sức dân. Trong quản lý xã hội và trong thực hành lối sống đạo đức, văn minh, phải coi tiết kiệm là quốc sách. Người từng căn dặn cán bộ, đảng viên, những đày tớ, công bộc của dân, đức tính tiết kiệm và thương dân, mỗi đồng tiền bát gạo mà chúng ta tiêu dùng đều từ mồ hôi, nước mắt của dân làm ra. Thương dân thì phải tiết kiệm. Lãng phí là không thương dân. Tham ô là ăn cắp của dân, là có tội với dân, là kẻ thù của dân. Người chú trọng tình thương, sự cảm thông chia sẻ trước những nỗi khổ đau của con người, của dân chúng. Từ những nỗi đau của con người trong Phật giáo, trong Kinh thư, Hồ Chí Minh mang nỗi đau lớn của mọi người, mọi nỗi khổ riêng, mỗi gia đình cũng có nỗi đau riêng, cộng tất cả nhà, nỗi đau có tính nhân loại. Người nói: Mỗi người cũng có những nỗi đau ấy là nỗi đau khổ của tôi.

Nếu Mạnh Tử coi bốn đức Nhân - Nghĩa - Lễ - Trí đều do

Tâm (Tín) mà ra thì Khổng Tử coi Tín là mỹ đức.

Do đó, dân tin là điều quan trọng nhất trong chính trị. “Bỏ lương thực từ xưa đến nay mọi người đều chết nhưng dân không tin thì không thể đứng được” (Luận ngữ - Nhan Uyên).

Đây cũng là điều cốt yếu trong đạo trị nước.

600 năm trước, Nguyễn Trãi đã từng nhận định, việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, chở thuyền là dân mà lật thuyền cũng là dân. Quy luật của muôn đời là ở chỗ, có dân thì có tất cả, mất dân thì mất tất cả.

Trong lịch sử hiện đại và đương đại, quy luật về sức dân lại càng sáng tỏ. Sự biến Liên Xô và Đông Âu cuối thế kỷ XX vừa qua, xét ra chỉ vì đảng cầm quyền đã tự đánh mất lòng tin của dân chúng. Sai lầm đó khi xảy ra là không thể cứu vãn.[15]

Trong triết lý Hồ Chí Minh, đây là điều đặc biệt nổi bật. Người thường xuyên bận tâm, đau đáu nỗi lo trước tình trạng quan liêu, lãng phí, tham ô. Người vạch rõ, căn nguyên sâu xa của bệnh ấy là do xa dân, không tin dân, không thương dân. Phải thực hành hai chữ “dân chủ”, chống lại thói hư tật xấu chủ” và “lên mặt quan cách mạng” để chữa trị căn bệnh “quan phải nguy hiểm đó. Người đòi hỏi mọi cán bộ, đảng viên, công chức gần dân, học dân, hỏi dân, hiểu dân, tin dân. Đề cao đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, thiếu một đức thì không thành người, Người thực hành sự nêu gương làm điều lợi cho dân, việc khó mấy cũng phải làm cho bằng được, tránh điều hại tới dân, dù chỉ một cái hại nhỏ. Có được dân tin, dân phục, dân yêu, dân ủng hộ, dân giúp đỡ, dân bảo vệ thì sự nghiệp cách mạng mới thành công. Sự nghiệp ấy cũng chỉ vì dân. Đảng và Chính phủ tồn tại cũng chỉ để chăm lo lợi ích, mưu cầu hạnh phúc cho dân. Đó là điều căn bản nhất trong triết lý nhân sinh và hành động của Hồ Chí Minh. Đó là triết lý "thân dân" và "chính tâm". Ở đời thì phải thân dân, làm người thì phải chính tâm. Tiếp thu và nâng cao triết lý ấy của người xưa, Hồ Chí Minh đẩy tới triết lý dân chủ và đạo đức cách mạng.

Quan niệm của Người về vấn đề này như thế nào? Người đã kế thừa và phát huy vốn cổ. Trong Kinh dịch có đoạn viết: Lập nên đạo của người thì có nhân và nghĩa.

Đạo đức học của Hồ Chí Minh được xây dựng trên bốn chuẩn mực giá trị, đó là bốn đức: cần, kiệm, liêm, chính để đạt tới chí công, vô tư là nguyên tắc trong ứng xử, trong hoạt động và hành động.

Đạo đức cách mạng của Hồ Chí Minh với những chuẩn mực giá trị và nguyên tắc đó có kế thừa và phát triển các tư tưởng nhân trị, chính danh, tu thân, chính tâm, thân dân và minh đức của Nho giáo trong một hoàn cảnh mới, với một chất lượng mới, phản ánh yêu cầu mới của thời đại cách mạng.

Nho giáo coi trọng minh đức, thân dân, chí thiện của đạo làm người theo mẫu nhân cách của người quân tử.

Hồ Chí Minh mượn hình thức biểu đạt ấy để thể hiện nội dung đạo đức mới theo mẫu nhân cách của người cách Đó là đạo làm người của người cách mạng, của con người mới mà cũng là của mỗi người trong cộng đồng nhân dân theo lý tưởng cách mạng.

Hồ Chí Minh giải thích rằng, “theo ý riêng của tôi, thì hạt nhân ấy có thể tóm tắt trong 11 chữ: Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại thân dân. Nói tóm tắt minh đức là chính tâm. Thân dân là phục vụ nhân dân, đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết”[16].

Đem vào tư tưởng thân dân và chính tâm một nội dung mới, với điểm tư tưởng mới, Hồ Chí Minh nói rõ: nghĩ cho cùng, vấn đề tư pháp cũng như mọi vấn đề khác trong lúc này là vấn đề ở đời và làm người. Ở đời và làm người là phải thương nước, thương dân, thương nhân loại bị đau khổ, áp bức[17].

Người đồng thời đề cập sự thực hành tư tưởng ấy ở bản thân mình và khẳng định: lòng thương yêu của tôi đối với nhân dân và nhân loại không bao giờ thay đổi.[18]

Nét đặc sắc trong triết lý thân dân và chính tâm, triết lý nhân sinh và hành động của Hồ Chí Minh là ở chỗ, thân dân của Hồ Chí Minh không phải từ trên để đến với dân, gần dân nhưng dân vẫn chỉ là thần dân, thứ dân, thảo dân như các vua chúa thời phong kiến - dù đó là những minh quân, vua sáng tôi hiền có lòng thương yêu dân chúng; hoặc như trong khuôn phép đạo Khổng, chia thứ bậc quân tử bề trên và tiểu nhân (tức là dân) ở bậc dưới. Người vượt qua được ý thức hệ phong kiến đẳng cấp ấy, Người cũng vượt qua ý thức hệ tư sản mà đứng vững trên lập trường cách mạng với ý thức hệ giai cấp công nhân, xác định rõ dân là chủ và dân làm chủ. Người đồng thời thực hành trong lối sống hằng ngày triết lý dân chủ. Dân là người chủ, là chủ thể thì từ chủ tịch nước đến các nhân viên, công chức, cán bộ trong bộ máy chỉ là đày tớ, công bộc của dân Cái gì tốt cho dân, cái gì lợi cho dân thì cái đó là chân lý. Phục vụ dân tận tụy và trung thành là phục tùng chân lý cao nhất. Làm đày tớ công bộc của dân là thực hành một lẽ sống cao thượng nhất. Do đó, đến với dân, gần dân của Hồ Chí Minh là hòa vào dân chúng, sống trong lòng dân, thấu hiểu và thấu cảm cuộc sống, nguyện vọng, tâm tình của dân, học dân, hỏi dân, kính trọng, lễ phép với dân, giúp đỡ dân, làm cho dân hiểu, dân tin về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ, có như thế mới lãnh đạo được dân. Lãnh đạo dân cũng là để phục vụ dân, toàn tâm toàn ý vào công việc, tận tâm tận lực vì con người. Hồ Chí Minh đến với dân không có một khoảng cách phân biệt nào, đúng như cố thủ tướng Phạm Văn Đồng nhận xét: “Hồ Chí Minh cao mà không xa... Với dân, Người thân thiết, chân thành, cởi mở, tự nhiên, dường như hóa thân vào dân chúng, làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, có nhà ở, được học hành, được hưởng quyền tự do dân chủ mà họ xứng đáng được hưởng với tư cách người chủ.

. Chính tâm ở Hồ Chí Minh là cái tâm chính trực, động cơ trong sáng quên mình, nêu cao đức hy sinh vì dân, đề cao trách nhiệm trước dân, có lỗi thì thành thật xin lỗi dân và quyết tâm sửa chữa, lại dựa vào dân để dân giúp đỡ, kiểm tra việc sửa chữa đó sao cho có kết quả. Người căn dặn cán bộ, đảng viên như vậy, bản thân Người cũng làm như vậy. Đó là đạo đức cách mạng.

Người nhấn mạnh: “Thực hành dân chủ để làm cho dân ai cùng được hưởng quyền dân chủ tự do”[19]. Có “phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả lực lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến lên”[20].

Muốn có dân chủ thực chất thì phải đoàn kết thực chất, tinh thành đoàn kết. Có dân chủ và đoàn kết mới tạo ra đồng thuận. Phải nghiêm trị những kẻ bất liêm để bảo vệ dân, làm cho dân giác ngộ, dân hiểu rõ đã có quyền làm chủ thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ người chủ.

Tình thương yêu con người với đồng bào trong dân tộc và đồng loại trong thế giới nhân loại của Hồ Chí Minh gắn liền với đức hy sinh, vị tha, với sự tôn trọng giá trị con người, với niềm tin vào sự chiến thắng của đạo đức, chính nghĩa. Theo Hồ Chí Minh, ở đời, con người là những con người đời thường, không phải thánh thần. Mỗi người đều có những cái hay, cái tốt và những cái dở, cái xấu. Phải làm sao cho cái hay, cái tốt nảy nở như hoa mùa xuân, cái dở, cái xấu thì mất dần đi rồi tới chỗ mất hẳn. Tình đồng loại và tính cộng đồng gắn kết con người lại với nhau, đối với con người phải có niềm tin và tình thương để thuyết phục và cảm hóa. Người nói, giống như bàn tay, có ngón dài ngón ngắn nhưng dài ngắn cũng đều trên cùng một bàn tay. Người xưa nói, nhân vô thập toàn. Không ai là không có khuyết điểm, nhược điểm nhưng khuyết điểm, nhược điểm đều có thể sửa chữa được để trở nên tốt đẹp hơn. Hồ Chí Minh cho rằng, đã sống đã làm việc thì đều có khuyết điểm. Chỉ có hai loại người là chưa có hoặc không còn khuyết điểm nữa. Đó là đứa trẻ chưa sinh, còn là cái thai trong bụng mẹ và người đã chết, đã nằm trong áo quan

Phải nhìn nhận con người như thế để mà thế tất, bao dung trong xử thể, ứng xử độ lượng, khoan hòa.

Người suốt đời đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, đó là giặc nội xâm, một thứ giặc ở trong lòng nhưng không bao giờ xem nhẹ, phủ nhận cá nhân, chống chủ nghĩa cá nhân không có nghĩa là giẫm đạp lên cá nhân, giày xéo cá nhân. Không có cá nhân thì không thành xã hội. Người nhận thức rất rõ rằng, ai cũng có nhu cầu riêng, cá tính, lợi ích, sở trường riêng. Nếu những cái đó không trái với xã hội thì không phải là xấu, không có gì phải chống lại mà phải chăm sóc, vun trồng cho nó phát triển Người đề cao tự phê bình và phê bình nhưng căn dặn chúng ta, phê bình công việc chứ không được xúc phạm con người, bởi ai cũng là một cá nhân, một nhân cách. Phê bình phải có lý và có tình, thấu lý đạt tình, phải đúng và phải khéo. Đừng vì phê bình mà làm tổn thương tới lòng tự ái của người ta. Trong tự ái, tự yêu lấy mình có phẩm chất của lòng tự trọng. Không tự trọng chính mình thì không thể biết tôn trọng người đối thoại, người khác. Hiểu tự ái như vậy để hiểu mình, hiểu người, là cái chất nhân bản, nhân văn trong ứng xử với con người của Hồ Chí Minh.

Người chủ trương biến đại sự thành tiểu sự, biến tiểu sự thành ra vô sự. Phải có độ lượng vĩ đại thì mới có thể chí công vô tư. Sông to, bể rộng thì bao nhiêu nước cũng chứa được, vì độ lượng của nó rộng và sâu. Cái chén nhỏ, cái đĩa cạn thì chút nước cũng đầy tràn vì độ lượng của nó hẹp và nhỏ... Chỉ sợ mình không có lòng bao dung nhân ái chứ không sợ người ta không theo mình.

Trong hoạt động, ta nhớ rằng, có lần người đi thăm trại tù binh, Người đã cởi cả áo khoác, cả khăn quàng cho những tù binh đang lên cơn sốt. Đó là chất nhân tình của Hồ Chí Minh

Người đã từng nói, bọn đế quốc thực dân là một lũ ác quỷ, phải quét sạch nó đi. Song khi thấy những người lính thực dân đó chết trên chiến trường, Người cũng tỏ lòng ái ngại, ngậm ngùi, bởi nếu không có những dã tâm xâm lược thì họ không phải bỏ mạng sống ở miền đất xa lạ này. Họ cũng chỉ là nạn nhân mà thôi.

Đây là một trong những câu nói cảm động của Người: “Tôi nghiêng mình trước anh hồn những chiến sĩ và đồng bào Việt Nam, đã vì Tổ quốc mà hy sinh tính mạng. Tôi cũng ngậm ngùi thương xót cho những người Pháp đã tử vong. Than ôi, trước lòng bác ái, thì máu Pháp hay máu Việt cũng đều là máu, người Pháp hay người Việt cũng đều là người”[21].

Triết lý này của Người làm ta liên tưởng tới trải nghiệm của đời người và của loài người “nước mắt nào cũng có vị mặn, máu nào cũng là máu đỏ”.

Người không bao giờ gọi một trận đánh chết nhiều người là một trận đánh đẹp. Đó chỉ là đánh giỏi mà thôi. Đổ máu chỉ là bất đắc dĩ, không đổ máu, tránh đổ máu vẫn tốt hơn. Phải từ đây mà hiểu lòng nhân ái cao cả trong triết lý nhân sinh và hành động của Hồ Chí Minh.

Thực hành triết lý nhân sinh và hành động, Hồ Chí Minh tỏ rõ một trí tuệ sáng suốt và một đạo đức cao cả, một lối sống cao thượng. Tự hào về dân tộc mình, Người nhấn mạnh, dân tộc ta là một dân tộc yêu hòa bình, trọng công lý và luôn luôn có tinh thần nhân đạo.

Với bản thân Người, suốt một đời thực hành lý luận trong thực tiễn, thực hành dân chủ, dân vận, đoàn kết và sâu xa, bao trùm tất cả là thực hành đạo đức cách mạng. Đó là năm thực hành lớn trong cuộc đời của Người, tỏ rõ triết lý nhân sinh và hành động của Người. Suốt cuộc đời làm cách mạng Người là biểu tượng đẹp đẽ về sự thốn nhất giữa lời nói với việc làm, nêu gương mẫu mực cho mọi thế hệ người Việt Nam chúng ta.

Người căn dặn tuổi trẻ phải có ý chí lớn, hoài bão lớn, làm việc lớn vì dân vì nước. Tuổi trẻ phải tránh xa như tránh lửa những dục vọng, địa vị, tiền bạc, danh vọng, những cái đó nếu không làm chủ được rất dễ sinh ra hư hỏng. Chính Người đã nêu gương thực hành điều đó, phải ít lòng tham muốn vật chất, không hiếu danh, không kiêu ngạo. Xem thường danh vị, ngôi thứ, tiền bạc vì chúng là cội nguồn sinh ra đố kỵ và hận thù.

Người tự bộc bạch lòng mình với nhân dân, đồng bào yêu quý của Người: “Tôi tuyệt nhiên không ham muốn công danh phú quý chút nào... Riêng phần tôi thì làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh, nước biếc để câu cá, trồng hoa, sớm chiều làm bạn với các cụ già hải củi, em trẻ chăn trâu, không dính líu gì với vòng danh lợi[22].

Cả đời, Người chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước nhà được độc lập, đồng bào có cơm ăn, áo mặc, nhà ở, được học hành, được hưởng tự do và hạnh phúc.

Di chúc là bản tổng kết lớn của cách mạng, trong đó có cuộc đời và sự nghiệp của Người mà Người đã tự nguyện dâng hiến, trọn vẹn cho dân, cho nước. Người mong muốn khi ra đi được nằm trong ĐẤT MẸ, trên mả (mộ) không cần bia đá tượng đồng, chỉ cần làm một ngôi nhà để ai đến thăm Người thì có chỗ nghỉ ngơi. Người căn dặn trồng cây làm kỷ niệm, chăm sóc cây chu đáo, trồng cây nào sống cây ấy, lâu ngày cây tốt thành rừng, vừa đẹp cho phong cảnh vừa lợi cho nông nghiệp. Người còn dặn, thi hài được đốt đi, nói chữ là hỏa táng, khi có nhiều điện thì điện táng sẽ thành phổ biến, hợp vệ sinh cho người sống, lại đỡ tốn đất ruộng. Người nghĩ tới nông dân cần có đất mà trồng lúa. Người còn dặn, tro thì chia vào ba hộp sành, dành cho mỗi miền một hộp. Đến thân thể, thi hài mình Người cũng không nghĩ về mình nữa. Mang tâm Phật và triết lý Phật giáo “vô ngã vị tha”, Hồ Chí Minh là như vậy: Triết lý nhân sinh và hành động của Hồ Chí Minh là triết lý sống để dâng hiến tất cả cho người, cho đời là như vậy.

PGS.TS Tô Huy Rứa, GS.TS. Hoàng Chí Bảo (đồng chủ biên): Nghiên cứu chủ thuyết phát triển của Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia Sự Thật, trang 423 - 442



[1] Hồ Chí Minh toàn tập t.5, tr.125

[2] Hồ Chí Minh toàn tập t.11, trang 605

[3] Hồ Chí Minh toàn tập t.11, trang 605

[4] Hồ Chí Minh toàn tập t.10, trang 392

[5] Hồ Chí Minh toàn tập, t.10, tr.453.

[6] Hồ Chí Minh toàn tập, t.6, tr.323.

[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.5, tr.228.

[8] Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.10, tr.472.

[9] Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.14, tr. 383,

[10] Bác Hồ với Thủ đô Hà Nội, Nxb, Văn hóa thông tin. Hà Nội, 1990, tr.166.

[11] Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.10, tr. 453.

[12] Nguyễn Tài Thư: Vấn đề con người trong Nho học sơ kỳ, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2005.

[13] Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.12, tr.121.

[14] Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.13, tr. 70.

[15] Egon Krenz: “Đánh mất lòng tin của dân - Sai lầm không thể cứu vãn”, Báo điện tử Vietnamnet ngày 26-9-2010

[16] Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.10, tr.377.

[17] Hồ Chí Minh: Nhà nước và pháp luật, Nxb. Pháp lý, Hà Nội, 1990, tr.174.

[18] Dẫn theo Võ Nguyên Giáp: Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr. 231-232.

[19] Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.5, tr.39.

[20] Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.12, tr. 376.

[21] Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, tr. 510.

[22] Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, tr. 187.


/*** js CHAN TRANG ***/