Tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống là nền tảng và động lực tinh thần để phát triển xã hội. Đạo đức là gốc của mỗi con người. Ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta đã ý thức sâu sắc về vai trò đặc biệt quan trọng của tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của đảng viên, cũng như của toàn xã hội đối với sự phát triển của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, Đảng luôn rất quan tâm đến công tác giáo dục, xây dựng tư tưởng chính trị, đạo đức cách mạng, lối sống nhân văn cho cán bộ, đảng viên và toàn xã hội.
Từ sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng ta đã trở thành đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước. Trước sự xuất hiện của nguy cơ tha hóa bởi quyền lực, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặc biệt coi trọng việc giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên; phòng, chống suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; đồng thời quan tâm giáo dục lý tưởng, đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân trong cán bộ, đảng viên.
Trong thời kỳ đổi mới, do tác động của nhiều nhân tố khách quan và chủ quan, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên diễn biến phức tạp. Tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1-1994) Đảng đã chỉ ra những biểu hiện của sự suy thoái này và coi đó là một trong bốn nguy cơ cần quan tâm đấu tranh phòng, chống. Các kỳ đại hội Đảng tiếp theo và nhiều hội nghị Trung ương các khóa tiếp tục đánh giá thực trạng và diễn biến của suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; xác định việc ngăn chặn và đẩy lùi sự suy thoái này là nhiệm vụ vừa cơ bản lâu dài, vừa có ý nghĩa cấp bách trước mắt.
Văn kiện Đại hội XII của Đảng nhận định: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi; có mặt, có bộ phận còn diễn biến phức tạp hơn”(1).
Hội nghị Trung ương 4 khóa XII đã quyết định ban hành Nghị quyết “Tăng cường xây dựng chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”.
Ban Chấp hành Trung ương đã vạch rõ những biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, trong đó nguy hiểm nhất là sự phai nhạt lý tưởng cách mạng, không kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, mơ hồ, dao động, thiếu niềm tin; nói trái, làm trái quan điểm, đường lối của Đảng; sa sút ý chí chiến đấu, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh, phụ họa theo những nhận thức, quan điểm sai trái, lệch lạc; không còn ý thức hết lòng vì nước, vì dân, không làm tròn bổn phận, chức trách được giao; không thực hiện đúng các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng; sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi, hám danh, tham nhũng, ham quyền lực; bè phái cục bộ, mất đoàn kết; quan liêu, xa dân, vô cảm trước khó khăn, bức xúc của nhân dân.
Trong phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 4 khóa XII, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cảnh báo: “Từ suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc”(2).
Ban Chấp hành Trung ương khẳng định: Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó nguyên nhân chủ quan là chủ yếu, bắt nguồn từ việc bản thân cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện; lập trường tư tưởng không vững vàng; sa vào chủ nghĩa cá nhân, quên trách nhiệm, bổn phận trước Đảng, trước dân. Nguyên tắc tập trung dân chủ bị buông lỏng, nguyên tắc tự phê bình và phê bình được thực hiện không nghiêm. Việc nghiên cứu, sửa đổi, ban hành cơ chế, chính sách, luật pháp thích ứng với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa kịp thời; nhiều văn bản quy định thiếu chế tài cụ thể.
Quản lý cán bộ, đảng viên còn lỏng lẻo. Đánh giá, sử dụng, bố trí cán bộ còn nể nang, cục bộ. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên chưa được coi trọng đúng mức, chậm đổi mới, kém hiệu quả. Công tác kiểm tra, giám sát, giữ gìn kỷ cương, kỷ luật ở nhiều nơi chưa thường xuyên, không nghiêm túc. Vai trò của nhân dân trong việc giám sát, phản biện, góp ý kiến xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền thông qua Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và các hình thức khác chưa được phát huy đầy đủ, hiệu quả.
Về giải pháp khắc phục tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, Ban Chấp hành Trung ương thống nhất phải tiến hành đồng bộ, tập trung vào các nhóm: Về giáo dục chính trị tư tưởng, tự phê bình và phê bình; về cơ chế, chính sách; về kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; về phát huy vai trò của nhân dân và Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội. Chú trọng nêu gương những người tốt, việc tốt; ngăn ngừa, cảnh báo, phê phán những việc làm sai trái. Đấu tranh mạnh mẽ chống chủ nghĩa cá nhân, thói ích kỷ, vụ lợi, “lợi ích nhóm”.
Rà soát, hoàn thiện cơ chế kiểm soát việc thực thi quyền lực của người có chức, có quyền. Xử lý nghiêm những hành vi vi phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước; kiên quyết chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí. Thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng, công tác cán bộ, công tác kiểm tra, công tác giáo dục, rèn luyện, quản lý đảng viên. Phát huy vai trò giám sát của nhân dân, của báo chí, của công luận.
Ban Chấp hành Trung ương đặc biệt nhấn mạnh, để Nghị quyết đi vào cuộc sống, tạo ra chuyển biến rõ rệt đòi hỏi cả hệ thống chính trị phải vào cuộc. Từng tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ cấp cao, cán bộ chủ chốt, người đứng đầu các cấp, các ngành phải nhận thức sâu sắc, đầy đủ trách nhiệm của mình trước nhân dân, trước Đảng để tự giác thực hiện. Ở đây, sự gương mẫu của Ban Chấp hành Trung ương là vô cùng quan trọng, có ý nghĩa quyết định. Từng đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương, Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư, từng đồng chí đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp phải tự giác, gương mẫu thực hiện Nghị quyết, nói đi đôi với làm, chỉ đạo quyết liệt với quyết tâm rất cao, nỗ lực rất lớn.
Để cuộc đấu tranh phòng, chống sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên trong tình hình hiện nay đạt hiệu quả, góp phần củng cố, nâng cao niềm tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, cần đặc biệt quán triệt, tập trung giải quyết một số vấn đề sau:
1- Cần nhìn thẳng vào sự thật để vạch rõ nguyên nhân sâu xa của tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên là ở sự lạc hậu, hạn chế trong công tác xây dựng Đảng; trong thực tiễn hoạt động của hệ thống chính trị; trong quản lý nhà nước về kinh tế - xã hội,...
Nếu không nhận thức sâu sắc căn nguyên này và quyết tâm khắc phục sự lạc hậu, hạn chế đó, thì mọi giải pháp khác sẽ khó phát huy hiệu quả, hoặc chỉ có tính chất nhất thời, không thể giải quyết được về cơ bản vấn đề. Quyết tâm khắc phục sự lạc hậu, hạn chế đó có thể được coi vừa là điều kiện cơ bản nhất, vừa là giải pháp chủ yếu nhất để ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên.
2- Để khắc phục sự yếu kém, hạn chế của công tác tư tưởng, lý luận nhằm chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống cần thực hiện tốt một số phương hướng cơ bản sau đây:
- Tăng cường công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu, phát triển lý luận, để lý luận thực hiện đúng vai trò dẫn đường cho sự phát triển của thực tiễn. Tăng cường một cách có hiệu quả công tác tổng kết thực tiễn, trên cơ sở đó bổ sung, phát triển và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn cách mạng mới, hình thành và lý giải có cơ sở khoa học, có sức thuyết phục con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với yêu cầu và thực tiễn Việt Nam, mang bản sắc Việt Nam. Coi trọng việc giáo dục chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm đổi mới của Đảng cho cán bộ, đảng viên để mỗi cán bộ, đảng viên có niềm tin son sắt vào sự tất thắng của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
- Tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng của Đảng. Đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên gắn với việc kiểm điểm, đánh giá và có biện pháp giải quyết vấn đề cấp bách trong công tác xây dựng Đảng, củng cố niềm tin trong nhân dân. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý báo chí, xuất bản trước yêu cầu mới. Làm tốt hơn nữa việc tuyên truyền, nêu gương những “người tốt, việc tốt”, đồng thời phê phán, đấu tranh với những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, vô trách nhiệm, vụ lợi cá nhân, cơ hội chủ nghĩa, “lợi ích nhóm”,... Thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình,...
- Đổi mới tư duy, phát triển lý luận về đạo đức, xây dựng hệ thống các giá trị, chuẩn mực đạo đức phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn đất nước trong giai đoạn hiện nay. Coi trọng việc nghiên cứu và truyền bá tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, bao gồm các triết lý, giá trị, chuẩn mực đạo đức truyền thống của dân tộc và đạo đức của người cộng sản. Cụ thể hóa, xây dựng các chuẩn mực đạo đức Hồ Chí Minh cho từng giai cấp, tầng lớp, nhóm xã hội, gắn liền với lợi ích và thực tiễn cuộc sống của họ, để việc rèn luyện, tu dưỡng và thực hành đạo đức cách mạng trở thành lối sống tất yếu thường nhật của mỗi cán bộ, đảng viên.
- Đấu tranh có hiệu quả với âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; làm thất bại các thủ đoạn tác động vào tư tưởng trong Đảng; tạo cho cán bộ, đảng viên sức đề kháng cao, đủ sức chống lại “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.
3- Để khắc phục các khiếm khuyết, bất hợp lý trong cơ cấu tổ chức, cơ chế hoạt động của hệ thống chính trị nói chung, trong hệ thống pháp luật và cơ chế điều hành, quản lý đất nước nói riêng, có thể làm ảnh hưởng đến tư tưởng chính trị trong cán bộ, đảng viên, cần coi trọng các giải pháp sau:
- Đổi mới chính trị phải được tiến hành đồng thời với đổi mới kinh tế; cải cách bộ máy quản lý nhà nước theo hướng tinh gọn, có sự phân công, phối hợp thực thi quyền lực nhà nước, kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở quyền lực nhà nước là thống nhất; đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội. Tăng cường tính dân chủ, tính công khai, minh bạch trong hoạt động của hệ thống chính trị nói chung, bộ máy nhà nước nói riêng. Tăng cường cơ chế giám sát, quy định rõ trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị, quản lý nhà nước.
- Đổi mới và tăng cường công tác cán bộ và quản lý cán bộ trong hệ thống chính trị. Lấy đánh giá cán bộ làm tiền đề có tính đột phá. Xây dựng tiêu chuẩn cán bộ theo chức danh, tiêu chí đánh giá cán bộ phù hợp. Cải cách cơ chế thi cử, tuyển dụng, đào tạo, luân chuyển, quy hoạch, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ để các công việc này diễn ra thực sự khách quan, công bằng, công khai theo tinh thần trọng dụng người hiền tài. Triệt để xóa bỏ bao cấp, đặc quyền, đặc lợi, bất bình đẳng, bảo đảm công khai, minh bạch các chế độ chính sách, các khoản chi trả cho cán bộ, kể cả xăng xe, nhà đất cho cán bộ trung, cao cấp..., theo hướng tiền tệ hóa và đưa vào tiền lương, phụ cấp. Tiền lương phải bảo đảm được các nhu cầu sống cơ bản của cán bộ và hằng năm được điều chỉnh theo mức tăng thu nhập quốc dân, bảo đảm cán bộ, công chức có thu nhập bằng tiền lương cao hơn mức trung bình của xã hội.
- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng, công tác thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng việc. Nâng cao hiệu quả thực sự công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm. Xử lý nghiêm những hành vi vi phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Có cơ chế đủ mạnh kiểm soát việc thực thi quyền lực của người có chức, có quyền; cơ chế giám sát, quản lý chặt chẽ cán bộ, đảng viên.
- Tăng cường cơ chế giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội đối với hoạt động của các tổ chức, cơ quan trong hệ thống chính trị. Phát huy vai trò của nhân dân trong giám sát đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, kể cả nơi công tác và nơi cư trú.
4- Để khắc phục sự suy thoái về đạo đức, lối sống, ngoài giải pháp cơ bản nêu trên, cần tập trung vào những vấn đề chính là:
- Thực sự coi trọng việc giáo dục đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên. Tăng cường chỉ đạo, định hướng hoạt động trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật, góp phần khẳng định giá trị đạo đức và nhân cách con người Việt Nam. Đấu tranh có hiệu quả chống âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; ngăn chặn ảnh hưởng của tư tưởng, đạo đức, lối sống tư sản.
- Nâng cao chất lượng, triển khai theo chiều sâu và lồng ghép các nội dung của việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh với thực hiện các nhiệm vụ chính trị, chương trình phát triển kinh tế - xã hội, trong các lĩnh vực xã hội khác nhau, duy trì thường xuyên trong sinh hoạt đảng. Bổ sung vào thang giá trị đạo đức, các phẩm chất đạo đức cơ bản của cán bộ, đảng viên các tiêu chí: dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; có tinh thần dũng cảm đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, mất dân chủ.
- Tăng cường cơ chế giám sát về tư cách đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, công chức từ phía cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, nhất là từ tổ chức đảng. Hoàn thiện hệ thống các văn bản quy định, các thiết chế bảo đảm việc phòng ngừa và khắc phục sự suy thoái trong Đảng; Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ và Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội có quy định về trách nhiệm và nêu gương của cán bộ lãnh đạo các cấp trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Cán bộ chủ chốt, người đứng đầu các cấp các ngành, địa phương, trước hết là cán bộ cấp, cao phải tự giác nêu gương, nói đi đôi với làm, thực hiện đầy đủ trách nhiệm của mình trước Đảng, trước nhân dân.
5- Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, kiên định mục tiêu, lý tưởng cách mạng, tăng cường sự thống nhất ý chí, hành động trong Đảng, giữ mối liên hệ gắn bó mật thiết với nhân dân. Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, nhất là chi bộ, đảng bộ cơ sở, đặc biệt trong việc giao nhiệm vụ, kiểm tra, giám sát, quản lý. Thực hiện tốt Quy định 76-QĐ/TW, ngày 15-6-2000, của Bộ Chính trị, “Về việc đảng viên đang công tác ở các cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp thường xuyên giữ mối liên hệ với chi ủy, đảng ủy cơ sở và gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân nơi cư trú”, bảo đảm sự giám sát thường xuyên của tổ chức đảng và nhân dân đối với cán bộ, đảng viên, công chức. Tạo dư luận mạnh, tích cực để biểu dương các cá nhân và việc làm tốt, lên án các hành động sai trái, vi phạm về tư cách, đạo đức, lối sống.
6- Thực hiện nghiêm nguyên tắc Đảng lãnh đạo công tác cán bộ trong hệ thống chính trị. Phát huy dân chủ, công khai, minh bạch trong quy trình đánh giá, luân chuyển, quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ, chú trọng ý kiến của Mặt trận Tổ quốc, cấp ủy và nhân dân để tránh chủ quan, để lọt những phần tử cơ hội chính trị, cá nhân chủ nghĩa, ngăn chặn tình trạng “chạy chức, chạy quyền”. Xây dựng và thực thi cơ chế thực sự trọng dụng người có đức, có tài, trong đó đức là gốc. Xây dựng cơ chế, chính sách phát hiện, thu hút, trọng dụng nhân tài cho đất nước.
7- Thực sự quan tâm đến việc nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên bằng việc ban hành và thực thi quy định chặt chẽ hơn về kết nạp đảng viên mới bảo đảm chất lượng, kiên quyết không chạy theo số lượng để ngăn chặn những kẻ cơ hội, thực dụng thâm nhập vào hàng ngũ của Đảng. Nghiên cứu để có cách thức đánh giá, xếp loại đảng viên thực chất hơn, đủ sức thanh lọc, loại bỏ những phần tử thoái hóa, biến chất ra khỏi Đảng. Không dung nạp những phần tử cơ hội, cá nhân chủ nghĩa trong Đảng.
8- Kiên quyết thực hiện ngay việc công khai tài sản, thu nhập của cán bộ, đảng viên, công chức. Cơ quan chống tham nhũng đủ quyền hạn để thực thi nhiệm vụ; giao cho cơ quan này quản lý thu nhập, tài sản của cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị. Đẩy mạnh việc phòng ngừa, ngăn chặn và đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí bằng tổ chức hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách và nhiều biện pháp để cán bộ “không thể tham nhũng”, “không dám tham nhũng”.
9- Tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong Đảng, quản lý xã hội bằng pháp luật. Trong xử lý vi phạm cần kết hợp chặt chẽ giữa vận động, giáo dục với xử phạt nghiêm minh, trước hết là phạt tiền. Kết hợp các biện pháp giáo dục, quản lý hành chính, pháp luật với dư luận để điều chỉnh hành vi của mỗi cá nhân. Khơi dậy lòng tự hào, tự tôn dân tộc qua những khẩu hiệu hành động thiết thực.
10- Xây dựng, thực thi cơ chế, chính sách để quản lý, kiểm soát chặt chẽ vốn, tài sản, tài nguyên của đất nước; xóa bỏ kẽ hở pháp luật, chính sách cho tham nhũng lợi dụng.
Thực hiện tốt phương châm kết hợp “xây” và “chống”, trong đó xây tích cực, chống quyết liệt.
Huy động cả hệ thống chính trị vào cuộc, đưa Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII thực sự đi vào cuộc sống, làm chuyển biến rõ rệt công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên./.
-------------------------------------------
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 185
(2) Tạp chí Cộng sản, số 889 (11-2016), tr. 20
VŨ VĂN PHÚC PGS, TS, PHÓ CHỦ TỊCH CHUYÊN TRÁCH HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CÁC CƠ QUAN ĐẢNG TRUNG ƯƠNG
Bài đăng trên tạp Chí cộng sảng ngày 22 tháng 01 năm 2017