I. KHÁI QUÁT VỀ NHẬT BẢN
Nhật Bản là một đất nước khan hiếm
về tài nguyên thiên nhiên, thường xuyên phải gánh chịu thiên tai, sóng thần, động
đất, nhưng từ tro tàn của chiến tranh, đã nhanh chóng vươn lên trở thành một
trong những cường quốc phát triển hàng đầu thế giới; đồng thời luôn là thành
viên tích cực tại các diễn đàn kinh tế, chính trị, xã hội quốc tế.
Về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, Nhật Bản là một quần đảo nằm ở khu vực Đông Bắc Á, trải ra theo một vòng cung hẹp dài 3.800 km, từ vĩ độ bắc 20°25’ đến 45°33’. Tổng diện tích tự nhiên là377.835 km2, gồm 4 đảo chính (Honshu, Hokkaido, Kyushu và Shikoku) và khoảng 3.900 đảo nhỏ. Dân số khoảng 126,5 triệu người. 73% diện tích đất là đồi núi, diện tích đất nông nghiệp tương đối ít. Khí hậu với bốn mùa rõ rệt nhưng có sự khác nhau rất lớn giữa các khu vực. Nhìn chung, khí hậu ở Nhật Bản tương đối khắc nghiệt, lại bị ảnh hưởng nhiều bởi thiên tai, như: núi lửa, động đất, sóng thần... Điều này đã tạo nên tính cách của người Nhật Bản chịu thương, chịu khó, tiết kiệm, bản lĩnh, kiên cường, cứng rắn, trung thành với các giá trị truyền thống, nhưng lại tiếp nhận rất sớm và nhanh những giá trị của văn minh nhân loại để phát triển đất nước…
Nhật Bản có Thủ đô là Tokyo. Các
khu vực hành chính chia thành 47 vùng; trong đó có các thành phố lớn là:
Yakohama, Osaka, Kyoto, Hirroshima, Kobe... Tổ chức nhà nước theo chính thể
quân chủ lập hiến. Hiến pháp được thông qua ngày 03/5/1947. Đứng đầu Nhà nước
là Hoàng Đế; đứng đầu Chính phủ là Thủ tướng. Nhật Bản theo chế độ cha truyền
con nối. Quốc hội bổ nhiệm Thủ tướng, Hiến pháp quy định Thủ tướng phải giành
được sự ủng hộ của đa số trong Quốc hội, vì vậy sau khi bầu cử Quốc hội, lãnh đạo
của đảng đa số hay lãnh đạo của liên minh đa số trong Hạ viện thường trở thành
Thủ tướng. Cơ quan lập pháp là Quốc hội hai viện, gồm Thượng viện và Hạ viện.
Cơ quan tư pháp là Tòa án Tối cao. Chánh án do Hoàng đế bổ nhiệm sau khi được
Chính phủ lựa chọn, các thẩm phán khác do Chính phủ bổ nhiệm. Các đảng phái
chính gồm: Đảng Dân chủ tự do (LDP), Đảng Dân chủ Nhật Bản (DPJ), Komeito, Đảng
Tự do, Đảng Cộng sản Nhật Bản (JCP), Đảng Dân chủ xã hội (SDP)... Chế độ bầu cử
theo phổ thông đầu phiếu (người dân từ 20 tuổi trở lên thì được đi bầu cử). Về
quan hệ quốc tế, Nhật Bản đã tham gia và là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế,
như: AfDB, APEC, AsDB, BIS, EBRD, ESCAP, FAO, IADB, IAEA, IBRD, ICAO, IFAD,
ILO, IMF, IMO, Interpol, ISO, ITU, OECD, UN, UNCTAD, UNESCO, UNIDO, UPU, WFTU,
WHO, WIPO, WtrO...
Tôn giáo bao gồm Thần đạo và đạo
Phật (chiếm 84% dân số), các tôn giáo khác (16%). Văn hóa Nhật Bản là một trong
những nền văn hóa đặc sắc nhất thế giới. Văn hóa Nhật đã phát triển mạnh mẽ qua
thời gian từ thời kỳ Jōmon cho tới thời kỳ đương thời, trong đó chịu ảnh hưởng
cả từ văn hóa Châu Á, Châu Âu và Bắc Mỹ. Nghệ thuật truyền thống của Nhật Bản
bao gồm các ngành nghề thủ công, như: ikebana, origami, ukiyo-e, đồ chơi, đồ gỗ
sơn mài và gốm sứ... Sự kết hợp của nghệ thuật in khắc gỗ truyền thống với văn
hóa phương Tây đã dẫn đến sự ra đời của Manga, một thể loại truyện tranh nổi tiếng
cả trong và ngoài nước Nhật. Sự ảnh hưởng của Manga đến thể loại hoạt hình đã dẫn
đến sự phát triển thể loại hoạt hình đặc trưng của Nhật có tên gọi là Anime. Nhờ
sự phát triển như vũ bão của Manga và Anime mà các trò chơi game video của Nhật
cũng phát triển mạnh mẽ từ thập niên 1980. Các môn nghệ thuật biểu diễn có:
bunraku, nhảy, kabuki, nō, rakugo… Âm nhạc của Nhật Bản đã mượn nhiều nhạc cụ
và phong cách từ các quốc gia láng giềng và phát triển thêm các nét đặc trưng của
Nhật. Điển hình như đàn Koto được giới thiệu vào Nhật từ thế kỷ thứ IX và X,
hay như thể loại kịch Nō từ thế kỷ XIV và âm nhạc dân gian đại chúng, với những
cây đàn shamisen được truyền bá tới Nhật từ thế kỷ XVI. Âm nhạc phương Tây được
giới thiệu vào Nhật cuối thế kỷ XIX, giờ đã trở thành một phần nội tại quan trọng
trong văn hóa Nhật Bản. Ngoài ra, còn phải kể đến những nét đặc sắc truyền thống
khác, như: trà đạo, Budō, kiến trúc, vườn Nhật và cả gươm Nhật… Ẩm thực Nhật Bản
hiện nay là một trong những nền ẩm thực nổi tiếng nhất trên thế giới. Ở Nhật,
giáo dục bắt buộc và miễn phí đối với trẻ em từ 6 - 15 tuổi. Hệ thống giáo dục
gồm bậc tiểu học 6 năm, trung học cơ sở 3 năm và trung học 3 năm.
Hiện nay, Nhật Bản là nước có nền
kinh tế lớn thứ ba trên thế giới (tính theo GDP), sau Mỹ và Trung Quốc; đồng thời
là nước có vị trí quan trọng trong nhóm G8 (những nước có nền kinh tế phát triển
nhất thế giới) và thuộc nhóm các quốc gia dẫn đầu thế giới trong các lĩnh vực về
nghiên cứu khoa học, công nghệ máy móc, nghiên cứu y học…
II.
TRUYỀN THỐNG LỊCH SỬ NGHÌN NĂM VÀ NHIỀU KẾT QUẢ TỐT ĐẸP TRONG QUAN HỆ VIỆT NAM
- NHẬT BẢN
Việt Nam và Nhật Bản là hai dân tộc,
hai quốc gia có mối quan hệ rất lâu đời. Cùng nằm ở Châu Á - Thái Bình Dương,
sự gần gũi, tương đồng về mặt văn hóa đã đưa nhân dân hai nước đến với nhau như
một lẽ tự nhiên trong quá trình phát triển. Lịch sử quan hệ hai nước có nhiều
biểu tượng tốt đẹp về những mối giao thương, sự kết nối, tình thâm giao và cả
những mối lương duyên bền chặt, sâu sắc.
Theo sử cũ
chép lại, vào khoảng thời Nara (thế kỷ VIII), nhiều người Nhật Bản gặp gió bão,
bị trôi dạt về phương Nam, tới các vùng lãnh thổ của Việt Nam hiện nay. Trong số
đó, người đầu tiên là ông Nakamaro Abeno có thuyền gặp bão, bị dạt vào Việt Nam
năm 716. Năm 761, ông được nhà Đường cử sang làm An Nam Tiết Độ Sứ trong 6 năm,
để lại những cảm xúc tốt đẹp trong các tác phẩm thi ca của mình về xứ sở An Nam
tươi đẹp. Đến thế kỷ thứ
VIII, nhà sư Phật Triết từ miền Trung Việt Nam đã được người dân địa phương đón
tiếp tại chùa Đại An ở Cố đô Nara của Nhật Bản khi ông sang truyền đạo và dạy
nhạc Lâm Ấp. Năm 1604, thương nhân Hunamoto Yabeiji, đồng thời là phái viên
ngoại giao của chính quyền Mạc phủ Ê-đô đã được Chúa Nguyễn Hoàng nhận làm con
nuôi. Năm 1662, Chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã gả công chúa Ngọc Hoa cho thương
nhân Araki Sotaro, sau này ông được phong làm Hoàng thân của triều Nguyễn và có
trên Việt là Nguyễn Đại Lượng[1]. Hàng
năm, ông đã giúp Chúa Nguyễn tổ chức đội thuyền ra Quần đảo Hoàng Sa để thu
hàng hóa, vũ khí của các tàu bị đắm và hải vật. Từ thế kỷ XVII, miền Trung Việt
Nam, nhất là thương cảng Hội An đã đón nhiều tàu buôn và thương nhân Nhật Bản
đến làm ăn và sinh sống, lưu lại những công trình văn hóa, kiến trúc độc đáo
mang đậm dấu ấn Nhật Bản cho đến ngày nay… Và cách đây hơn 60 năm, trong bối cảnh các mối
quan hệ chính trị thế giới phức tạp, Chủ tịch Hồ Chí Minh với nhãn quan của một
nhà chính trị, nhà văn hóa lớn, đã nhìn thấy trước mối quan hệ tất yếu sẽ gắn
bó lâu dài giữa Việt Nam và Nhật Bản: “Tương
lai của nước Nhật và tương lai của Việt Nam khăng khít với nhau. Sự đoàn kết của
chúng ta nhất định thắng lợi”[2].
Ngày 21/9/1973, Việt Nam và Nhật Bản
đã chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao. Nhật Bản trở thành một trong những
quốc gia sớm thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Sau khi Việt Nam thống
nhất đất nước, hai nước đã tiến hành trao đổi đại sứ quán, khởi động giao lưu,
trao đổi đoàn và ký Thỏa thuận về việc Chính phủ Nhật Bản viện trợ không hoàn
lại đối với Việt Nam. Trải qua những thăng trầm của lịch sử, năm 1992 là dấu
mốc đặc biệt trong quan hệ hai nước khi Nhật Bản quyết định mở lại viện trợ cho
Việt Nam. Kể từ đó, quan hệ kinh tế, chính trị, giao lưu văn hóa… giữa hai nước
được mở rộng, sự hiểu biết và tin cậy từng bước tăng lên. Năm 2002, Việt Nam và
Nhật Bản thiết lập quan hệ “Đối tác tin
cậy, ổn định lâu dài”. Tháng 10/2006, quan hệ Việt Nam - Nhật Bản tiếp tục
có bước tiến mới sau khi hai bên ký Tuyên bố chung “Hướng tới quan hệ đối tác chiến lược vì hòa bình và phồn vinh ở Châu
Á”. Với quyết tâm thúc đẩy và làm sâu sắc hơn nữa quan hệ hợp tác toàn
diện, tháng 4/2009, hai nước chính thức nâng quan hệ lên tầm “Đối tác chiến lược vì hòa bình và phồn vinh
ở Châu Á”. Hai năm tiếp đó, quan hệ song phương được mở thêm một trang mới
với việc lãnh đạo cấp cao hai nước ký các tuyên bố chung “Phát triển toàn diện quan hệ đối tác chiến lược vì hòa bình và phồn
vinh ở Châu Á” (tháng 10/2010) và “Triển
khai hành động trong khuôn khổ đối tác chiến lược vì hòa bình và phồn vinh ở Châu
Á” (tháng 10/2011).
Trên
nền tảng quan hệ đối tác chiến lược, trong bối cảnh tình hình quốc tế mới, quan
hệ Việt Nam - Nhật Bản đã phát triển mạnh mẽ, toàn diện và thực chất, là cơ sở
để đến tháng 3/2014, hai nước quyết định nâng cấp quan hệ lên thành “Đối tác chiến lược sâu rộng vì hòa bình và
phồn vinh ở Châu Á”. Đặc biệt, tháng 9/2015, nhân chuyến thăm Nhật Bản của
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, hai nước đã ra Tuyên bố về “Tầm nhìn chung quan hệ Việt Nam - Nhật Bản”. Đây được coi là dấu
mốc quan trọng đánh dấu giai đoạn phát triển mới toàn diện và tốt đẹp chưa từng
có của mối quan hệ song phương Việt Nam - Nhật Bản trên tất cả các lĩnh vực,
như chính trị - ngoại giao, kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh,
giao lưu cấp địa phương, giao lưu nhân dân… Năm 2022, sau cuộc hội đàm giữa Thủ
Tướng Phạm Minh Chính và Thủ tướng Kishida Fumio đã chứng kiến Lễ trao đổi 22
văn kiện hợp tác giữa các bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp hai nước. Hai
Thủ tướng đã có cuộc gặp gỡ báo chí chung, thông báo những kết quả chính trong
cuộc hội đàm, nhấn mạnh hai bên nhất trí cùng nhau phối hợp chặt chẽ, thúc đẩy
làm sâu sắc hơn quan hệ Đối tác chiến lược sâu rộng Việt Nam - Nhật Bản, vì lợi
ích của nhân dân hai nước, vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu
vực và trên thế giới.
Trong 50
năm qua, quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa hai nước không ngừng được củng cố và
phát triển trên nhiều lĩnh vực; quan hệ chính trị, ngoại giao, hợp tác trong
lĩnh vực an ninh, quốc phòng ngày càng được tăng cường, củng cố, đi vào chiều
sâu, thực chất, hiệu quả. Quan hệ
chính trị, ngoại giao; hợp tác trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng ngày càng
được tăng cường, củng cố, đi vào chiều sâu, thực chất, hiệu quả. Hoạt động văn
hóa, giao lưu nhân dân đã trở thành một nền tảng quan trọng cho mối quan hệ
ngày càng gắn bó và tin cậy giữa hai nước.
Đặc biệt, hợp tác kinh tế - thương mại - đầu tư luôn được
đặc biệt chú trọng và đẩy mạnh toàn diện. Hai bên đã đẩy mạnh hợp tác chặt chẽ
tại các diễn đàn, cơ chế đa phương ở cả cấp độ khu vực và toàn cầu; xây dựng
nhiều khuôn khổ pháp lý quan trọng cho quan hệ song phương; tích cực phối hợp
trong các vấn đề khu vực và quốc tế cùng quan tâm, thúc đẩy liên kết kinh tế,
tự do hóa thương mại thông qua việc ký kết và thực thi Hiệp định Đối tác toàn diện
và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện
khu vực (RCEP)... Hoạt động văn hóa, giao lưu nhân dân đã trở thành
một nền tảng quan trọng cho mối quan hệ ngày càng gắn bó và tin cậy giữa hai
nước. Đặc biệt, hợp tác kinh tế - thương mại - đầu tư luôn được đặc biệt chú
trọng, đẩy mạnh toàn diện. Hai bên đã xây dựng nhiều khuôn khổ pháp lý quan
trọng cho quan hệ song phương.
Hiện nay, Nhật Bản là đối tác kinh tế quan trọng
hàng đầu của Việt Nam, là nước cung cấp nguồn ODA lớn nhất (trên 2.700 tỷ Yên
vốn vay, gần 100 tỷ Yên viện trợ không hoàn lại và 180 tỷ Yên hỗ trợ cho hợp
tác kỹ thuật); góp phần quan trọng trong việc phát triển
các dự án cơ sở hạ tầng quy mô lớn, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế -
xã hội bền vững; hỗ trợ chuyển giao công nghệ tiên tiến, đào tạo nguồn nhân lực
cho Việt Nam...
Về đầu tư,
hiện nay, Nhật Bản nằm trong top 3 nhà đầu tư
nước ngoài (FDI) lớn nhất tại Việt Nam với hơn 4.835 dự án với tổng vốn trên 64
tỉ USD (FDI từ Nhật Bản đã hiện diện ở 57/63 tỉnh, thành phố của Việt Nam); nhà
đầu tư và đối tác du lịch lớn thứ ba của Việt Nam. Đến nay, Nhật Bản có hơn 5 nghìn dự án còn hiệu lực với tổng
vốn đầu tư gần 70 tỷ USD, đứng thứ 3/141 trong số các nước và vùng lãnh thổ đầu
tư vào Việt Nam. Hiện có trên 200 doanh nghiệp
Nhật Bản đang hoạt động tại Việt Nam, trong đó hơn 60% doanh nghiệp có kế hoạch
mở rộng hoạt động tại Việt Nam, vượt xa mức trung bình của ASEAN là 47%. Điều
này chứng tỏ mức độ sẵn sàng đầu tư của các doanh nghiệp Nhật Bản vào Việt Nam
là lớn nhất. Và Việt Nam có 104
dự án đầu tư sang Nhật Bản với vốn đầu tư đăng ký đạt 19,2 triệu USD, đứng thứ
36 trong tổng số 79 quốc gia và vùng lãnh thổ mà Việt Nam đầu tư ra nước ngoài.
Bên cạnh đó, Sáng kiến chung Việt Nam - Nhật Bản, cơ chế hợp tác đặc biệt giữa
hai Chính phủ, qua 20 năm thực hiện với 8 giai đoạn, đã đem lại nhiều kết quả
tích cực trong cải thiện môi trường đầu tư và nâng cao năng lực cạnh tranh Việt
Nam để thu hút các nhà đầu tư nói chung và nhà đầu tư Nhật Bản nói riêng.
Về thương mại, mặc dù gặp rất
nhiều khó khăn do đại dịch Covid-19, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hai
nước năm 2022 đạt gần 50 tỷ USD, đưa Nhật Bản trở thành đối tác thương mại lớn
thứ 4 của Việt Nam. Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản
đạt gần 25 tỷ USD, nhập khẩu đạt gần 24 tỷ USD.
Về hợp tác lao động, Nhật Bản là một trong những
thị trường xuất khẩu lao động lớn và chủ lực của Việt Nam, là đối tác hợp tác
lao động lớn thứ hai của Việt Nam. Năm 2022, có hơn 127.000 lao động sang làm
việc tại Nhật Bản, cao gấp 6 lần năm 2021.
Người Việt Nam hiện đang sinh sống, làm việc và học tập
tại Nhật Bản có khoảng 500.000 người, trở thành cộng đồng người nước ngoài lớn
thứ hai tại Nhật Bản (sau Trung Quốc). Nhiều hội đoàn của người Việt đã được
thành lập, như: Hội người Việt Nam tại Nhật Bản (VAIJ), Hội Thanh niên Sinh
viên Việt Nam tại Nhật Bản (VYSA), Mạng lưới Học thuật người Việt Nam tại Nhật
Bản (VANJ), Hội Trí thức Việt Nam tại Nhật Bản (AVIJ), Hội Chuyên gia người
Việt Nam tại Nhật Bản (VPJ), Hội Chuyên gia người Việt Nam tại Nhật Bản (VPJ),
Hiệp hội Doanh nghiệp Việt Nam tại Nhật Bản (VJBA), Hội Phật tử Việt Nam tại
Nhật Bản, Hiệp hội Giao lưu Văn hóa Thể thao Việt Nam - Nhật Bản (FAVIJA)…,
cùng với 21 hội, đoàn của người Việt ở các địa phương; hơn 70 cặp địa phương có
thỏa thuận hợp tác, đã tạo nên sức mạnh tổng hợp cho cộng đồng người Việt Nam
tại Nhật Bản thực hiện có hiệu quả việc phối hợp với các hội hữu nghị truyền
thống; giao lưu văn hóa, kết nghĩa, đối ngoại nhân dân với các địa phương Nhật
Bản; tăng cường hợp tác, giao lưu về kinh tế, thương mại và đầu tư, góp phần
đưa quan hệ Đối tác chiến lược sâu rộng Việt Nam - Nhật Bản không ngừng phát
triển lên tầm cao mới, vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hòa bình, ổn định,
hợp tác và phát triển của khu vực và trên thế giới. Những thành tựu 50 năm quan
hệ Việt Nam - Nhật Bản đã tạo nền tảng cho mối quan hệ hai nước cùng đồng hành
phát triển, hướng tới tương lai, vươn tầm khu vực và thế giới.
Dựa trên
truyền thông lâu đời, 50 năm qua, quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa Việt Nam và
Nhật Bản đã không ngừng được củng cố, tăng cường và phát triển. Là hai nước
Đông Á, hai quốc gia biển, hai nền kinh tế Việt - Nhật có tính bổ sung cao, còn
nhiều dư địa và nhiều tiềm năng hợp tác trong nhiều lĩnh vực. Thời gian tới,
phát huy mạnh mẽ truyền thống hợp tác, kết quả toàn diện và lòng chân thành, sự
tin cậy lẫn nhau, quan hệ giữa hai nước sẽ tiếp tục được củng cố, tăng cường bền
chặt và hiệu quả, thực chất hơn nữa, mở ra kỷ nguyên mới trong quan hệ song
phương, vì lợi ích của nhân dân hai nước, đóng góp vào hòa bình, ổn định, hợp
tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới. Hai nước dự định sẽ trao đổi và tập
trung hợp tác vào các nội dung: chuyển đổi xanh; chuyển đổi số; hợp tác về năng
lượng; đồng thời đánh giá về Sáng kiến chung Việt Nam - Nhật Bản giai đoạn 8 và
định hướng cho giai đoạn 9 tiếp theo.
III. QUAN HỆ HỮU NGHỊ, HỢP TÁC TOÀN DIỆN GIỮA TỈNH
THỪA THIÊN HUẾ VỚI CÁC ĐỊA PHƯƠNG VÀ ĐỐI TÁC NHẬT BẢN THỜI GIAN QUA
Hơn 400 năm trước, vùng đất Cố đô Huế đã có mối quan hệ giao
thương với các địa phương Nhật Bản. Người Nhật đã tìm tới Thuận Hóa để buôn bán
qua những Châu Ấn thuyền (Shuinsen) được Mạc phủ Đức Xuyên gửi đi. Dần dần, người
Nhật đến Thuận Hóa ngày càng nhiều hơn. Khi các chúa Nguyễn có những chính sách
rộng mở về ngoại thương và cư trú, những người Nhật đã đến đây buôn bán, lập phố
và sinh sống lâu dài ở thương cảng Thanh Hà - một trong những cảng quốc tế ở thế
kỷ thứ XVII dưới thời chúa Nguyễn (nằm phía bờ tả ngạn sông Hương, cách kinh
thành Huế 4km, cách cửa biển Thuận An khoảng 10km và thuộc phường Hương Vinh, thành
phố Huế ngày nay). Chính sự giao lưu buôn bán này đã khiến văn hóa Nhật Bản trở
nên không còn xa lạ với người Việt.
Cách đây hơn
trăm năm, phong trào Đông Du do Phan Bội Châu cùng những người đồng chí của ông
khởi xướng cũng đã thắt chặt hơn mối quan hệ giữa hai dân tộc và đào tạo cho Việt
Nam những lực lượng ưu tú để về chấn hưng đất nước, đánh đổ ách đô hộ của thực
dân Pháp. Lịch sử chính là chiếc cầu nối vững chắc để hai dân tộc Việt Nam - Nhật
Bản vượt qua những rào cản, tiếp tục xây dựng mối quan hệ hợp tác đương đại.
Năm 2009, Thừa
Thiên Huế (Thuận Hóa - Phú Xuân ngày nay) lại vinh dự được Hoàng Thái tử Naruhito (nay là Nhật Hoàng Naruhito) chọn là điểm đến trong chuyến thăm chính thức Việt Nam.
Nhiều năm sau, Nhật Hoàng Akihito và Hoàng hậu Michiko (nay là Thượng Hoàng Akihito và Hoàng Thái Hậu Michiko) tiếp tục ưu ái chọn đến thăm Huế trong chuyến công du chính thức
Việt Nam năm 2017. Đây không chỉ là niềm vinh hạnh của tỉnh nhà mà còn là dấu ấn
đặc biệt, tiền đề để tỉnh tiếp tục phát triển mối quan hệ sâu sắc hơn với Nhật Bản trên nhiều
phương diện.
Hòa cùng những giai đoạn lịch sử phát triển tốt đẹp, rực rỡ
trong quan hệ ngoại giao Việt Nam - Nhật Bản; quan hệ hợp tác giữa tỉnh Thừa
Thiên Huế với các đối tác Nhật Bản đã không ngừng phát triển mạnh mẽ, sâu rộng
và hiệu quả. Nhật Bản đã trở thành một trong những đối tác tin cậy, quan trọng
hàng đầu trên nhiều lĩnh vực của tỉnh.
Về hợp tác cấp địa phương, tỉnh Thừa Thiên Huế
đã có quan hệ hợp tác có hiệu quả với nhiều địa phương của Nhật Bản và đạt được
nhiều kết quả tốt đẹp trên nhiều lĩnh vực, như: phát triển du lịch, giao lưu
văn hóa, ngoại giao nhân dân... Tỉnh đã ký kết thỏa thuận hợp tác với hai địa
phương cấp tỉnh của Nhật Bản là Kyoto (tháng 3/2014) và Gifu (tháng 11/2016);
phối hợp triển khai các chương trình dự án hợp tác với thành phố Yokohama, tỉnh
Nara… Riêng thành phố Huế đã ký quan hệ hợp tác với 5 thành phố: Shizuoka
(2005), Kyoto (2013), Sasayama (2018), thành phố Saijo (2018) và thành phố
Takayama (2018).
Được sự quan tâm và hỗ trợ tích cực từ Bộ Ngoại
giao, tỉnh Thừa Thiên Huế thường xuyên có cơ hội tham gia các sự kiện, hoạt động
tiếp xúc và tăng cường mối quan hệ hợp tác với các đối tác Nhật Bản, như: Hội nghị Gặp gỡ Nhật Bản (2019);
Hội nghị Gặp gỡ vùng Kansai Nhật Bản - Khu vực Miền Trung Việt Nam (2019); Hội nghị lãnh đạo địa phương
Việt Nam - Nhật Bản (tháng 01/2020); Chương trình xúc tiến thương mại,
đầu tư và hợp tác nhiều mặt Việt Nam với vùng Kyushu, Nhật Bản tại tỉnh
Fukuoka (từ ngày 24/7-1/8/2022); Chương trình Quảng bá địa phương tại Hàn Quốc -
Nhật Bản (tháng 6/2023)... Thông qua các sự kiện này, tỉnh đã có dịp được tiếp
xúc, trao đổi thông tin và tìm kiếm cơ hội hợp tác với thêm nhiều địa phương Nhật
Bản, như: Kanagawa, Fukuoka, Shiga, Yamanashi, Kochi, Niigata, Hokkaido... Đây không chỉ là cơ hội quan trọng
để Thừa Thiên Huế có thể kết nối, thắt chặt hơn mối quan hệ với các đối tác Nhật Bản hiện
có, mà còn mở rộng kết nối với nhiều đối tác tiềm năng trong tương lai.
Trong những năm qua, mối quan hệ hợp tác toàn diện giữa tỉnh Thừa Thiên
Huế với Nhật Bản tiếp tục phát triển vượt bậc trên nhiều lĩnh vực, như: phòng
chống thiên tai; bảo tồn các di sản; giao thông; cấp nước; giáo dục, y tế. Bên
cạnh đó, tỉnh Thừa Thiên Huế cũng đã có quan hệ hợp tác với nhiều địa phương của
Nhật Bản, như: tỉnh Nara, phủ Kyoto, tỉnh Gifu, Thành phố Yokohama...
Nhật
Bản không chỉ là nhà tài trợ ODA lớn nhất cho Việt Nam mà còn là nhà tài trợ
ODA lớn nhất cho Thừa Thiên Huế. Nhiều dự án hoạt động khá
hiệu quả,
phù hợp với định hướng phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và đóng góp ngân
sách ổn định hàng năm cho tỉnh, như: Dự án hầm đường bộ Hải Vân dài nhất Đông
Nam Á, với tổng vốn 250 triệu USD; Dự án Bệnh viện quốc tế - 30 triệu USD dự án ODA
xây dựng Bệnh viện Trung ương Huế theo tiêu chuẩn quốc tế với tổng vốn 30 triệu
USD;
Chương trình trùng tu di tích cố đô Huế - Viện Di sản WASEDA, Tokyo tài trợ 4,5
triệu USD; “Dự án nâng cấp năng lực thích ứng
với thiên tai ở miền Trung” (2009 - 2012) đã hỗ trợ tỉnh hình
thành kế hoạch quản lý lũ tích hợp, giúp các địa phương trong vùng nâng cao
năng lực về quản lý thiên tai dựa vào cộng đồng và xây dựng các công trình chống
xói lở ở bờ sông với quy mô nhỏ, chi phí phí thấp; Dự án “Xây dựng xã hội thích ứng với thiên tai” (2013 - 7/2016); Dự
án xây dựng trường học, trồng rừng, giao lưu văn hóa - Công ty AEON tài trợ 3
triệu USD; Dự
án “Xây
dựng xã hội thích ứng với thiên tai”
(giai đoạn 2) được Chính
phủ Nhật Bản tài trợ tại Thừa Thiên Huế thông qua Cơ quan Hợp tác Quốc
tế Nhật bản (JICA), với số tiền viện trợ không hoàn lại là 60.456.000 JPY
(tương đương gần 13,5 tỷ đồng), tập trung thực hiện hoạt động quản lý rủi ro
thiên tai dựa vào cộng đồng và giáo dục thiên tai nhằm giảm thiểu rủi ro tại Thừa
Thiên Huế;
tăng cường các biện pháp phòng chống thiên tai liên quan tới nước bằng hệ thống
quản lý lũ tổng hợp tại các địa phương trên địa bàn. Đặc biệt dự án “Cải thiện môi trường nước thành phố
Huế” do JICA tài trợ cho thành phố Huế bằng nguồn vốn vay lãi suất ưu
đãi của Chính phủ Nhật Bản với tổng mức đầu tư: 24,008 tỉ Yên Nhật (tương đương
3.169 tỉ VND), đã góp phần cải thiện môi trường sống cho hơn 400.000 người
dân trong thành phố và các vùng lân cận; giúp giảm ngập lụt trong mùa lũ, bảo vệ
các di sản; đồng thời cải thiện sông ngòi, nâng cao hệ thống cấp thoát nước
tại thành phố Huế. Dự án Quản lý cấp nước an toàn Việt Nam - Nhật Bản, theo
chương trình hợp tác giữa Công ty HueWACO và Cục nước Yokohama đã trao đổi,
chuyển giao công nghệ trong lĩnh vực cấp nước nhằm cải thiện công tác quản lý
cấp nước cho các công ty cấp nước khu vực miền Trung và miền Nam Việt Nam. Dự
án đã hoàn thành các mục tiêu, chương trình đề ra và đã kết thúc vào ngày
30/8/2016… Giai đoạn
2015 - 2018,
trên địa bàn tỉnh có 7 dự án FDI của Nhật Bản hoạt động, với tổng vốn đăng ký
30,4 triệu USD, chủ yếu hoạt động trong các lĩnh vực: chế biến thực phẩm, may
mặc, công nghệ thông tin, cơ khí chính xác. Một số dự án hoạt động có hiệu quả,
như: Dự án sản xuất rượu Sake và rượu trắng Nhật Bản của Công ty TNHH MTV Thực
phẩm Huế và Công ty TNHH Saita (đã hoạt động gần 25 năm tại Thừa Thiên Huế),
doanh thu hàng năm đạt 1,77 triệu USD, nộp ngân sách nhà nước 799 nghìn USD; dự
án may mặc của Công ty TNHH MSV giải quyết cho hơn 1.000 lao động; dự án công
nghệ thông tin của Công ty TNHH MTV Brycen hoạt động từ năm 2013 và rất hiệu
quả, giải quyết cho trên 100 lao động, chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực công
nghệ thông tin, lập trình...
Hiện nay, toàn tỉnh đã thu hút được 117 dự án đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI), với tổng vốn đầu tư đăng ký là 4.347 triệu USD; trong đó có 16 dự
án đến từ doanh nghiệp Nhật Bản với tổng vốn đăng ký hơn 220,304 triệu
USD. Đặc biệt, dự án Trung tâm thương mại AEONMALL Huế của Công ty TNHH AEONMALL
Việt Nam với tổng vốn đầu tư 169,67 triệu USD đang xây dựng là một điểm nhấn về
thu hút đầu tư trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế. Ngoài ra, một số doanh nghiệp
Nhật Bản cũng đang hoạt động hiệu quả trong lĩnh vực đào tạo tiếng
Nhật, hỗ trợ các dịch vụ phục vụ nhu cầu xuất khẩu lao động...
Trên lĩnh vực văn hóa, nhiều hoạt động giao lưu, giới thiệu văn hóa vật thể,
phi vật thể Huế tiếp tục được triển khai hiệu quả. Trong
suốt 25 năm qua, Chính phủ Nhật Bản đã tích cực hỗ trợ Thừa Thiên Huế trong
việc bảo tồn, phục dựng các công trình kiến trúc cung điện, lăng tẩm của kinh
thành Huế thông qua các tổ chức, như: Viện nghiên cứu Di sản thế giới UNESCO -
Đại học Waseda, Đại học Nữ Chiêu Hòa, Đại học Kyoto - Nhật Bản. Chính phủ Nhật
Bản đã hỗ trợ tổng kinh phí gần 4,5 triệu USD trùng tu các di tích, như: nghiên
cứu bảo tồn di tích Huế và dự án phục nguyên điện Cần Chánh, một công trình
kiến trúc tiêu biểu của triều Nguyễn nằm trong khu vực Hoàng thành Huế; trùng
tu di tích Hữu Tùng Tự - lăng Minh Mạng; dự án Thực hiện kế hoạch hành động
quốc gia về bảo tồn Nhã nhạc; lập Hồ sơ quốc gia ứng cử Nhã Nhạc là Kiệt tác Di
sản Truyền khẩu và Phi vật thể của Nhân loại… Ngay từ đầu thập niên 90 của thế
kỷ XX, thông qua Quỹ ủy thác của UNESCO, Chính phủ Nhật Bản đã tài trợ 100 ngàn
đô la Mỹ trùng tu công trình Ngọ Môn. Đây là tài trợ rất có ý nghĩa với Cố đô
Huế. Tiếp đó, rất nhiều các dự án hợp tác giữa Việt Nam và Nhật Bản trong lĩnh
vực bảo tồn di sản văn hóa đã được mở ra khá toàn diện trong lĩnh vực trùng tu
bảo tồn di sản, đào tạo nguồn nhân lực bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể.
Trong các kỳ
Festival Huế và Festival nghề truyền thống Huế, nhân kỷ niệm 40 năm thiết lập
quan hệ ngoại giao Việt Nam - Nhật Bản, nhiều hoạt động văn hóa phong phú và thiết
thực đã được hai bên phối hợp tổ chức thành công, huy động được sự tham gia của
nhiều địa phương, đoàn nghệ thuật của Nhật Bản đến biểu diễn và các đối tác đến
từ Nhật Bản, như: Chương trình giới thiệu trang phục truyền thống và ẩm thực Nhật
Bản của thành phố Saijo, triển lãm Ningyo – Nghệ thuật và vẻ đẹp của Búp bê Nhật
Bản, Lễ dựng bia tưởng niệm cụ Phan Bội Châu, triển lãm ảnh, chương trình chiếu
phim và chương trình tọa đàm “Mối quan hệ
thắm thiết Việt Nam - Nhật Bản”; chương trình biểu diễn Nhã nhạc Cung đình
Huế tại Nhật Bản... Thông qua các hoạt động đó, đã tăng cường sự giao lưu hiểu
biết, trao đổi văn hóa giữa hai dân tộc, cũng như nâng cao hiệu quả quan hệ đối
ngoại giữa Thừa Thiên Huế với Nhật Bản.
Trong thời gian qua, hợp tác
du lịch Việt Nam - Nhật Bản đã phát triển mạnh mẽ, đặc biệt trong lĩnh vực thúc
đẩy trao đổi khách du lịch hai nước. Trên nền tảng đó, thị trường khách du lịch
Nhật Bản là một trong những thị trường trọng điểm của ngành du lịch tỉnh Thừa
Thiên Huế. Từ năm 2010 - 2015, số lượng khách du lịch Nhật Bản đến Thừa Thiên
Huế có sự tăng trưởng ổn định và thường xuyên xếp thứ 8 trong top 10 của lượng
du khách quốc tế đến Huế. Từ năm 2010
- 2017, số lượng khách du lịch Nhật Bản đến Thừa Thiên Huế có sự tăng trưởng ổn
định. Trung
bình mỗi năm tỉnh thu hút được 30.708 lượt khách (chiếm 4,30%), xếp thứ 7 trong
top 10 của lượng du khách quốc tế đến Huế. Gần đây, do
ảnh hưởng của dịch Civid-19 lên toàn cầu nên số du khách Nhật Bản đến Huế trong
năm 2020 ước đạt 8,959, đứng thứ 12 thị trường khách du lịch quốc tế, chiếm
2,2% thị phần. Năm 2021, số lượng khách du lịch Nhật Bản chỉ đạt 1.239, chiếm
6.1%, đứng thứ 5 thị trường du lịch quốc tế. Trong ba tháng đầu năm 2022, số
lượng khách du lịch Nhật Bản đạt 320 khách, chiếm 1.7%, đứng thứ 3 thị trường
du lịch quốc tế. Quan hệ phát triển du lịch cũng được hợp tác phát triển trên
nhiều mặt, nhất là các hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch của Thừa Thiên Huế
tại Nhật Bản, như: tham gia Hội chợ du lịch quốc tế JATA được tổ chức thường
niên tại Tokyo; tham gia lễ hội văn hóa du lịch do Trung tâm ASEAN - Nhật Bản
tổ chức; phối hợp với Hãng hàng không Quốc gia Vietnam Airlines tổ chức những
roadshow lớn tại ba thành phố của Nhật Bản là Osaka, Nagoya và Tokyo; phối hợp
tổ chức lễ hội Việt Nam tại Nhật Bản; phối hợp với các doanh nghiệp lữ hành và
Vietnam Airlines đón các đoàn khảo sát về du lịch từ Nhật; xây dựng website
quảng bá, giới thiệu du lịch Việt Nam bằng tiếng Nhật…
Trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, Đại học Huế đã phối hợp ký kết với
nhiều trường đại học của Nhật Bản, như: Đại học Yamnashi, Đại học Shimane, đại
học của thành phố Fukuroi... Nội dung chủ yếu là về trao đổi
sinh viên, học sinh, tăng cường mối
quan hệ với các trường học có học sinh học tiếng Nhật trên địa bàn tỉnh; hợp tác nghiên cứu và đào
tạo, phối hợp tổ chức hội nghị, hội thảo, trao đổi thông tin, tư liệu. Thông
qua các văn bản ký kết hợp tác, nhiều hoạt động trao đổi giáo viên, sinh viên,
hợp tác nghiên cứu và đào tạo, phối hợp tổ chức các hoạt động học thuật, trao đổi
thông tin, tài liệu, xây dựng và triển khai các chương trình, dự án nghiên cứu
phục vụ cho công tác đào tạo và giải quyết các vấn đề kinh tế, xã hội, y tế, an
ninh quốc phòng đã được triển khai trên địa bàn tỉnh. Qua đó, góp phần mở rộng
và nâng cao hiệu quả quan hệ hợp tác quốc tế của địa phương với các đối tác quốc
tế.
Về lĩnh vực y tế, từ nguồn vốn ODA, Nhật Bản đã hỗ trợ tỉnh các dự án xây dựng Bệnh viện quốc tế với tổng vốn đầu tư 30 triệu USD; xây dựng Bệnh viện Trung ương Huế
theo tiêu chuẩn quốc tế với tổng vốn 30 triệu USD... Bệnh viện
Trung ương Huế cũng như Trường Đại học Y Dược Huế đã có nhiều hoạt động giao
lưu, tham quan, học hỏi, trao đổi học thuật trên lĩnh vực y học với các trường
đại học của Nhật Bản, như: Đại học Metropolitan, Đại học Y khoa Nara, Đại
học Y khoa Kyoto, Đại học Cheju Halla... Bên cạnh đó, một số công ty của Nhật Bản
cũng đã đến tỉnh nghiên cứu, tìm hiểu cơ hội hợp tác trên lĩnh vực y tế, như: Công
ty Cổ phần Global Network Japan và Công ty sản xuất thực phẩn chức năng
Fukoidan Okinawa hợp
tác nghiên cứu sản xuất thuốc chữa bệnh và thực phẩm chức năng dựa vào nguồn
nguyên liệu thảo mộc tại địa phương; Tập đoàn IGL tìm kiếm cơ hội đầu tư trung tâm an dưỡng và chăm sóc y tế
cho người cao tuổi...
Nhật Bản tiếp tục là thị trường xuất khẩu lao động
lớn của tỉnh. Theo số liệu thống kê năm 2021, toàn tỉnh có 492 công dân đi làm
việc nước ngoài, trong đó có có 406 lao động làm việc tại Nhật Bản. Tính đến
tháng 8/2022, toàn tỉnh có 831 người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo
hình thức hợp đồng, trong đó thị trường xuất khẩu lao động Nhật Bản tiếp tục
chiếm số đông với 692 người đăng ký đi làm việc, tập trung vào các ngành nghề:
hộ lý, xây dựng, cơ khí, may mặc...
Các
hoạt động đối ngoại nhân dân đã không ngừng đổi mới, nâng cao chất lượng, phát triển
quan hệ hữu nghị giữa nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế với nhân dân các địa phương
Nhật Bản, nhằm củng cố môi trường hòa bình, tinh thần đoàn kết, hữu
nghị nhân dân, tạo dựng hình ảnh, góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh nhà. Giai đoạn 2016 - 2022, Hội hữu
nghị Việt - Nhật của tỉnh đã đón tiếp 56 đoàn, với hơn 1.000 lượt người đến
giao lưu văn hóa, giáo dục, thể thao, thực hành nghề nghiệp, homestay trải nghiệm
và tìm hiểu về hoạt động của tổ chức Công đoàn, triển khai hoạt động xúc tiến đầu
tư, tìm hiểu thị trường để triển khai các hoạt động kinh doanh, thu hút nguồn
nhân lực có trình độ, giao thương các mặt hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống…
Qua đó, đã phối hợp tổ chức ngày hội giới thiệu và giao lưu văn hóa Nhật Bản
cho học sinh - sinh viên đang học tiếng Nhật trên địa bàn tỉnh về văn hóa ẩm thực,
trà đạo, kimono, origami… và một số trò chơi dân gian khác. Thông qua các buổi
giao lưu văn nghệ, các Chi hội thành viên đã thành lập các câu lạc bộ đặc trưng
văn hóa Nhật Bản, như: Câu lạc bộ Manga - Animei, Câu lạc bộ Yosakoi của Đại học
Ngoại ngữ Huế, Câu lạc bộ tiếng Nhật của trường THCS Nguyễn Tri Phương, trường
Trung học phổ thông Nguyễn Huệ…
Các địa
phương của Nhật Bản cũng đã có nhiều hoạt động nhằm tăng hỗ trợ đào tạo nguồn
nhân lực cho tỉnh, như: Hội hữu nghị Okinawa - Việt Nam tổ chức chương trình giao lưu với chủ đề
“Giao lưu tìm hiểu cơ hội việc làm tại Nhật
Bản” cho sinh viên Huế; Học viện Nhật ngữ Osafune, thành phố
Okayama, Văn
phòng Nhật Bản thuộc Hiệp hội hỗ trợ thực tập và du học tại Nhật Bản đến thăm và làm việc về việc hợp
tác thúc đẩy việc du học của học sinh, sinh viên Việt Nam tại Nhật; Công ty TNHH Asing, Osaka làm việc
với Trường
Cao đẳng Công nghiệp Huế để tìm hiểu nguồn nhân lực chuyên ngành cơ khí và cơ hội làm việc tại các công ty của Nhật Bản... Nhiều tổ chức, doanh nghiệp Nhật Bản xúc tiến hợp tác
trên các lĩnh vực, như: Cộng đồng Liên vùng Union - Tokyo đến thăm và đặt vấn đề hợp tác
trên các lĩnh vực:
giáo dục, văn hóa, lịch sử, xây dựng, bảo hiểm và thuế; Quỹ phúc lợi ý tế Xã hội tại Nhật
Bản xúc tiến hợp tác thương mại với Trường Đại Học Y Dược và Trường Cao Đẳng Y tế Huế; Hợp tác xã Solution, Osaka đến
thăm và làm việc với Hiệp hội nghề cá Hạt Châu, thị trấn Thuận An để đặt vấn đề hợp tác phát triển
ngành nghề nuôi cá Nóc và cá Mú chất lượng cao để xuất khẩu cho thị trường Nhật
Bản;
làm việc với Hội hữu nghị Okinawa - Việt Nam, Hiệp hội Công thương Noshito, tỉnh
Akita… Công tác vận động, quan hệ và tổ chức thực hiện các
dự án phi chính phủ nước ngoài của Nhật Bản cũng được tỉnh chú trọng. Nhiều
chương trình, dự án về hỗ trợ y tế cộng đồng, phát triển nông thôn tổng hợp và
bền vững dựa và thích ứng với biến đổi khí hậu dựa vào cộng đồng, giải quyết hậu
quả bom mìn còn sót lại sau chiến tranh, an sinh xã hội và hỗ trợ phát triển
doanh nghiệp vừa và nhỏ… đã góp phần phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, làm
tốt công tác an sinh xã hội và giúp nhiều bộ phận nhân dân được hưởng lợi từ
các chương trình, dự án. Tiêu biểu có Dự án “Giảm thiểu nguy cơ bom mìn còn sót lại tại
tỉnh Thừa Thiên Huế” do Đại sứ quán Nhật Bản và Tổ chức rà phá bom mìn Đan Mạch
(DDG) Việt Nam, Quỹ A.P. Møller Support Foundation (Đan Mạch) hỗ trợ, với nguồn
vốn 1,2 triệu USD (tương đương 27 tỷ đồng), thực hiện từ 2017 - 2019, nhằm thiết
lập quan hệ hợp tác để xử lý các vật liệu nổ còn sót lại sau chiến tranh; góp
phần nâng cao an toàn cho con người và phát triển kinh tế - xã hội tại các cộng
đồng bị ảnh hưởng, thông qua chương trình rà phá bom mìn nhân đạo (HMA), triển
khai tại địa bàn 10 xã thuộc huyện miền núi A Lưới và các khu vực ưu tiên khác
theo đề xuất của tỉnh. Dự án “Phát triển cộng đồng bền vững ứng phó với biến đổi khí hậu vùng ven
phá Tam Giang” do tổ chức
SODI tài trợ,
được triển khai tại
xã Quảng Lợi, huyện Quảng Điền, triển khai các hoạt động xây dựng
cơ sở hạ tầng giao thông, môi trường và sinh thái, tổ chức các hoạt động
tập huấn nâng cao năng lực với điểm nhấn là Hội thi sân khấu cộng đồng nâng cao
nhận thức về biến đổi khí hậu...
*
Kỷ niệm 50
năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Nhật Bản (1973 - 2023) là dịp để củng
cố, xây đắp, gìn giữ và tăng cường hơn nữa mối quan hệ tốt đẹp này cho các thế
hệ tương lai, biến nó trở thành hình mẫu chưa từng có của sự gắn bó chân thành,
hài hòa và bền vững của hai nước, giữa Thừa Thiên Huế với các địa phương Nhật Bản,
trên cơ sở tôn trọng lợi ích của nhau. Trên cơ sở những nét tương đồng về văn
hóa cũng như lợi ích, bằng những hành động thiết thực, chắc chắn mối quan hệ Việt
Nam - Nhật Bản sẽ ngày càng phát triển đi vào chiều sâu, tương xứng với tầm vóc
cần có của mối quan hệ đối tác chiến lược cũng như truyền thống tốt đẹp vốn có
của quan hệ hữu nghị giữa hai nước./.