Chủ tịch Hồ Chí Minh (lúc nhỏ tên là Nguyễn Sinh Cung, khi đi học tên là Nguyễn Tất Thành, hoạt động cách mạng lấy tên là Nguyễn Ái Quốc, sau đổi tên Hồ Chí Minh) sinh ngày 19/5/1890, tại làng Sen, xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Sinh ra trong gia đình nhà nho yêu nước, lớn lên trong cảnh đất nước lầm than, chứng kiến các phong trào yêu nước kháng Pháp với các xu hướng khác nhau tiêu biểu như phong trào Đông Du của cụ Phan Bội Châu, phong trào Duy tân của cụ Phan Chu Trinh hay phong trào khởi nghĩa của Hoàng Hoa Thám…, nổ ra liên tiếp nhưng đều thất bại vì chưa có một đường lối đúng đắn; chứng kiến sự bóc lột, đày đọa tàn bạo của thực dân Pháp với người dân; mắt thấy, tai nghe về sự hy sinh xương máu của đồng bào, Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã sớm nung nấu ý chí ra nước ngoài, xem các nước khác, “sau khi xem xét họ làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi”[1]. Ngày 5/6/1911, Người xin làm phụ bếp trên con tàu Amiran Latusơ Tơrêvin rời bến cảng Sài Gòn đi Mácxây (Marseille) bắt đầu hành trình tìm đường cứu nước.
Gần
30 năm sinh sống và hoạt động ở nước ngoài, Nguyễn Tất Thành làm nhiều nghề,
tham gia cuộc vận động cách mạng của nhân dân nhiều nước, đồng thời không ngừng
đấu tranh cho độc lập tự do của dân tộc mình. Ngày 18/6/1919, với tên gọi Nguyễn
Ái Quốc, Người thay mặt Hội những người Việt Nam yêu nước tại Pháp gửi tới Hội
nghị Vécxây (Versailles) Bản yêu sách của nhân dân An Nam, yêu cầu các nước
tham dự Hội nghị thừa nhận các quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của dân
tộc Việt Nam. Năm 1920, tại Đại hội Tua, Người tham gia thành lập Đảng Cộng sản
Pháp. Năm 1921, tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa; năm
1922 xuất bản tờ báo Người cùng khổ ở Pháp. Năm 1923, Người được bầu vào Ban Chấp
hành Quốc tế Nông dân. Năm 1924, Người tham dự Đại hội lần thứ V của Quốc tế Cộng
sản và được chỉ định là Ủy viên Thường trực Bộ Phương Đông, trực tiếp phụ trách
Cục Phương Nam. Năm 1925, Người tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị
áp bức châu Á; xuất bản cuốn sách Bản án chế độ thực dân Pháp... Để chuẩn bị
cho việc thành lập Đảng Cộng sản tại Việt Nam, năm 1925, Người thành lập Hội Việt
Nam Cách mạng Thanh niên ở Quảng Châu (Trung Quốc) và tổ chức Cộng sản Đoàn,
đào tạo cán bộ để lãnh đạo Hội và truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam.
Năm 1929, ba tổ chức: Đông Dương Cộng sản
Đảng; An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn ra đời tại Việt Nam. Được
sự phân công của Quốc tế cộng sản, ngày 3/2/1930, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội
nghị thống nhất ba tổ chức trên, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ năm 1930
- 1940, Người tiếp tục hoạt động cho sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam và
các dân tộc bị áp bức khác trong điều kiện vô cùng khó khăn, gian khổ, bị bắt
giam và tù đày, cô lập.
Năm
1941, Người về nước triệu tập Hội nghị lần thứ 8 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Cộng sản Đông Dương, xác định đường lối đấu tranh giải phóng dân tộc, chỉ đạo
thành lập Hội Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh), tổ chức lực lượng vũ
trang, xây dựng căn cứ địa cách mạng, lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa từng phần và
tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Cách mạng Tháng Tám năm 1945
thắng lợi. Ngày 2/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình, Người đọc bản Tuyên ngôn độc
lập, tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; tổ chức Tổng tuyển cử tự
do trong cả nước, bầu Quốc hội và thông qua Hiến pháp dân chủ đầu tiên của Việt
Nam. Quốc hội khóa I (1946) Người được bầu làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa.
Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Chủ
tịch Hồ Chí Minh, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã đập tan âm mưu xâm lược
của các thế lực thù địch, phản động, bảo vệ và giữ vững chính quyền cách mạng.
Tại Đại hội lần thứ II của Đảng (1951), Người được bầu làm Chủ tịch Ban Chấp
hành Trung ương Đảng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuộc
kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược đã giành thắng lợi
vẻ vang, kết thúc bằng chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn
động địa cầu” (1954). Miền Bắc hoàn toàn giải phóng, Trung ương Đảng và Hồ Chủ
tịch tiếp tục lãnh đạo nhân dân ta thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược
của cách mạng Việt Nam: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh giải
phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân trong cả nước.
Đại hội lần thứ III của Đảng (1960) đã nhất
trí bầu lại Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao
động Việt Nam. Quốc hội khóa II, khóa III bầu Người làm Chủ tịch nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa. Cùng với Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đề ra đường lối
đúng đắn cho cuộc kháng chiến chống chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ đi đến
thắng lợi cuối cùng; đặt nền móng và không ngừng vun đắp tình hữu nghị giữa dân
tộc Việt Nam với các dân tộc trên thế giới, giữa Đảng Cộng sản Việt Nam với các
Đảng Cộng sản và phong trào công nhân quốc tế.
Ngày 02/9/1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời
là tổn thất vô cùng lớn lao. Di chúc Người để lại là một văn kiện lịch sử vô
giá, kết tinh trong đó cả tinh hoa tư tưởng, đạo đức và tâm hồn cao đẹp của một
vĩ nhân hiếm có đã suốt đời phấn đấu hy sinh vì Tổ quốc và nhân loại. Đồng bào
và chiến sĩ cả nước ta thương nhớ Người khôn xiết. Sự ra đi của Người để lại
muôn vàn tình thương yêu cho toàn Đảng, toàn dân tộc Việt Nam và tình đoàn
kết thân ái với nhân dân tiến bộ trên thế giới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cống hiến trọn
đời mình cho sự nghiệp cách mạng của Đảng ta, dân tộc ta, nhân dân ta
và vì hòa bình, tiến bộ xã hội trên thế giới. Người đã trải qua một cuộc đời
oanh liệt, đầy gian khổ hy sinh, vô cùng cao thượng và phong phú, vô cùng trong
sáng và đẹp đẽ. Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí
Minh mãi là tấm gương sáng ngời cho lớp lớp thế hệ người Việt Nam học tập và
noi theo.
Tên tuổi và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí
Minh sẽ còn mãi với non sông đất nước, sống mãi trong lòng mỗi chúng ta.
II. CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH - ANH HÙNG GIẢI
PHÓNG DÂN TỘC VIỆT NAM, CHIẾN SĨ LỖI LẠC CỦA PHONG TRÀO CỘNG SẢN VÀ CÔNG NHÂN
QUỐC TẾ, NHÀ VĂN HÓA KIỆT XUẤT
1. Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng
giải phóng dân tộc Việt Nam, chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế
Hồ Chí Minh,
anh hùng giải phóng dân tộc - “Người là một biểu tượng kiệt xuất về quyết tâm của
cả một dân tộc, đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của
nhân dân Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội”[2].
Đối với
cách mạng Việt
Chủ tịch Hồ Chí Minh là biểu tượng cao đẹp
của chủ nghĩa yêu nước chân chính kết hợp nhuần nhuyễn với chủ nghĩa quốc tế vô
sản. Ngay từ khi đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, Người luôn hướng về nhân dân
các dân tộc bị áp bức, chiến đấu không mệt mỏi vì một thế giới hòa bình, tự do
và bình đẳng, con người được sống hạnh phúc. Người đã hết lòng, hết sức xây dựng
sự đoàn kết nhất trí giữa các Đảng Cộng sản anh em trên cơ sở chủ nghĩa Mác -
Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng; không ngừng vun đắp quan hệ gắn
bó, hữu nghị giữa các dân tộc Đông Dương, các nước láng giềng; cống hiến xuất sắc
cả về lý luận và thực tiễn cho phong trào cộng sản và phong trào giải phóng dân
tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại là chiến sĩ quốc tế lỗi lạc, kiên cường và vô
cùng trong sáng, suốt đời chiến đấu cho công bằng, hòa bình và tiến bộ của các
dân tộc bị áp bức trên thế giới. Việt Nam - Hồ Chí Minh đã trở thành biểu tượng
của các dân tộc bị áp bức trong hành trình đòi lại độc lập, tự do. “Hồ Chí Minh sẽ còn ở lại mãi mãi trong lòng những
chiến sĩ đấu tranh cho công lý, tự do và độc lập của dân tộc mình như là một
trong những người kế tục vĩ đại và kiên cường nhất con đường của Các Mác và
Lênin”[3].
2. Chủ tịch Hồ Chí Minh - Nhà văn
hoá kiệt xuất
Cả cuộc đời cách mạng gần tám mươi năm Người
đã chiến đấu chống áp bức bất công, đem lại cuộc sống ấm no cho Nhân dân, cho
dân tộc, mưu cầu hạnh phúc cho nhân loại. Người đã hiến dâng cả cuộc đời cho
dân tộc, cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Hồ Chí Minh không chỉ là
một nhà tư tưởng lỗi lạc, mà còn là nhà hoạt động thực tiễn xuất sắc; không chỉ
là một chính trị gia vĩ đại, mà còn là một nhà văn hoá kiệt xuất.
Những năm tháng hoạt động cách mạng ở nước
ngoài, Hồ Chí Minh nghiên cứu và tiếp thu tinh hoa văn hoá phương Tây; viết
sách, báo bằng tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Nga… đặc biệt là tiếp thu chủ nghĩa
Mác - Lênin, đỉnh cao tư tưởng nhân văn của nhân loại. Người làm thơ chữ Hán.
Văn thơ chữ Hán của Người đạt đến trình độ của bậc Hán học. Người kế thừa truyền
thống văn hoá phương Đông, tiếp thu tinh hoa của Nho giáo, Phật giáo…. Hồ Chí
Minh đã vận dụng, phát triển và làm phong phú chủ nghĩa Mác - Lênin để phù hợp
với thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Hồ Chí Minh nhận rõ ý nghĩa lớn lao và vị
trí đặc biệt quan trọng của văn hoá, Người chỉ rõ: “Văn hoá phải soi đường cho
quốc dân đi”. Hồ Chí Minh là chiến sĩ tiên phong của nền văn học - nghệ thuật,
báo chí cách mạng, đấu tranh không mệt mỏi cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, cho công bằng, lẽ phải trên trái đất. Dưới sự lãnh đạo tài tình của Người,
cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 của Nhân dân ta đã thành công, giành lại độc
lập cho dân tộc; đồng thời cũng đã trả lại vị trí xứng đáng cho văn hoá Việt
Nam, mở ra một thời đại mới cho nền văn hoá dân tộc. Sự đóng góp của Hồ Chí
Minh về văn hoá không chỉ ở phương diện lý luận mà còn thấm đượm trong toàn bộ
cuộc đời và sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Người, tỏa sáng trong mỗi việc làm,
từng cử chỉ, từng mối quan hệ với đồng bào, đồng chí và bạn bè quốc tế.
Trong thế giới có nhiều thay đổi và biến động
nhanh chóng như hiện nay nhưng vẫn còn vẹn nguyên những giá trị không hề thay đổi;
trong những giá trị trường tồn đó có di sản tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh. Đó
là: nhân đạo và hoà bình; Tổ quốc và nhân loại; dân chủ và nhân văn; tự do và hạnh
phúc; tinh thần yêu nước và chủ nghĩa dân tộc chân chính; đạo đức cách mạng cần,
kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư…
III. TIẾP TỤC THỰC HIỆN VÀ PHÁT TRIỂN NHỮNG TƯ
TƯỞNG VĨ ĐẠI CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH TRONG KỶ NGUYÊN MỚI CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM
1.
Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; giữ trọn niềm
tin và vững bước trên con đường cách mạng Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lựa
chọn
Từ khi tìm ra chân lý của cách mạng vô sản,
tiếp thu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, Lãnh tụ Hồ Chí Minh đã vạch
ra con đường cách mạng phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Độc lập dân tộc và CNXH là tư tưởng lớn, là mục tiêu hướng tới suốt hành
trình tìm đường cứu nước và lãnh đạo cách mạng Việt Nam của Người. Mục
tiêu đó đã được xác định ngay trong các văn kiện đầu tiên Đảng; được khẳng định
là sự lựa chọn đúng đắn qua các giai đoạn lịch sử vì đã đáp ứng được yêu cầu thực
tiễn phát triển đất nước.
Và trong
suốt chiều dài lịch sử của cách mạng Việt Nam, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh đã luôn là nền tảng tư tưởng của Đảng ta, là động lực thúc đẩy sự
phát triển bền vững của cả dân tộc.
Trong công cuộc đấu tranh giành độc lập
dân tộc, dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng đã đề
ra đường lối đúng đắn lãnh đạo khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh
dân tộc và sức mạnh thời đại; chớp thời cơ cách mạng để xóa bỏ chính quyền thực
dân - phong kiến, làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đưa đất nước bước
vào Kỷ nguyên độc lập, tự do, xây dựng
chủ nghĩa xã hội.
Trải
qua cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Đảng ta, đứng
đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo nhân dân nhất tề đứng lên, chiến đấu kiên
cường, đánh bại các kiểu chiến tranh xâm lược, bảo vệ thành quả cách mạng, giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đưa cả nước quá độ lên CNXH bước vào Kỷ nguyên thống nhất đất nước, đổi mới,
phát triển.
Khi hệ thống XHCN ở Liên Xô và Đông Âu bị
tan rã, Việt Nam rơi vào tình thế muôn vàn khó khăn. Tiếp tục kiên định chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội; giữ trọn niềm tin vào con đường vị lãnh tụ kính yêu
đã chọn cho dân tộc; qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo
của Đảng,”Đất nước ta chưa bao giờ có được
tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.
Thế giới đang có nhiều thay đổi mang tính
thời đại. Các thế lực thù địch, phản động chưa bao giờ từ bỏ âm mưu lật đổ vai
trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; ráo riết tiến
hành chiến lược “diễn biến hòa bình” với nhiều phương thức, thủ đoạn ngày càng
tinh vi, xảo quyệt, thâm độc; triệt để lợi dụng hội nhập quốc tế toàn diện, sâu
rộng để thâm nhập nội bộ, thúc đẩy các yếu tố “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
hòng làm tan rã Đảng ta, chế độ ta từ bên trong.
Các thách thức an ninh phi truyền thống
gây ra nhiều tác động tiêu cực; sự xuất hiện, phát triển của không gian mạng
cùng với cuộc cách mạng khoa học công nghiệp lần thứ tư với quy mô, tốc độ chưa
từng có, đem đến thời đại mới mà quốc gia kém phát triển, đang phát triển có thể
tận dụng thời cơ, đi tắt đón đầu, phát triển vượt bậc, vươn lên thành những quốc
gia hùng mạnh hoặc bị rơi vào hố sâu tụt hậu nếu không tận dụng được thời cơ.
Trong nước, đây là thời điểm ý Đảng hòa
quyện với lòng dân trong khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc, sớm
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, sánh vai với các cường quốc năm châu; là
thời điểm “hội tụ” tổng hòa các lợi thế, sức mạnh đưa đất nước bước vào Kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân
tộc.
Trước yêu cầu của thực tiễn cách mạng đó, toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân ta luôn kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc, chủ nghĩa xã hội và đường lối đổi
mới đất nước; kiên định phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm, xây dựng Đảng
là then chốt, phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần, bảo đảm quốc phòng, an
ninh là trọng yếu, thường xuyên; phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực,
trong đó nguồn lực nội sinh, nguồn lực con người là quan trọng nhất.
2. Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về
xây dựng “Đảng cầm quyền”; nâng cao hơn nữa bản lĩnh và trí tuệ của Đảng, để Đảng
thực sự "là đạo đức là văn minh"
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập,
rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam để lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh
về Đảng cầm quyền là hệ thống những quan điểm toàn diện, sâu sắc về vị trí, vai
trò; mục đích, lý tưởng; nhiệm vụ và phương pháp hoạt động; những thách thức,
nguy cơ của Đảng cầm quyền; về mối quan hệ giữa Đảng cầm quyền và nhân dân… Người
luôn trăn trở: “Đảng ta là một đảng cầm
quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật
sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch,
phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”[4]. Di sản tư tưởng quý báu cùng với thực tiễn
hành động xây dựng Đảng và tấm gương đạo đức của Người có giá trị lý luận và thực
tiễn vô cùng to lớn, cần được nghiên cứu, quán triệt và vận dụng sáng tạo trong
đổi mới phương thức cầm quyền của Đảng, để tiếp tục nâng cao hơn nữa bản lĩnh
và trí tuệ của Đảng, để “Đảng ta là đạo đức là văn minh”[5] như Người hằng
mong muốn.
Thực hiện những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, trong suốt quá trình quá trình lịch sử ra đời và phát triển 95 năm
qua, Đảng ta luôn coi trọng công tác xây dựng Đảng. Chỉ tính riêng 10 năm gần
đây, ngay từ đầu mỗi nhiệm kỳ, các Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương
đều bàn và ban hành những nghị quyết, kết luận, quy định hết sức quan trọng về
công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; lần sau sâu sắc, toàn diện và cụ thể, rõ
ràng hơn so với lần trước. Việc thực hiện các nghị quyết về xây dựng Đảng gắn với
việc thực hiện việc đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh"; thực hiện quy định về trách nhiệm nêu gương, những điều đảng
viên không được làm và đặc biệt là việc thành lập, bổ sung, hoàn thiện chức
năng, nhiệm vụ và đi vào hoạt động rất có hiệu quả của Ban Chỉ đạo Trung ương về
phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở cả Trung ương và cấp tỉnh đã tạo sự chuyển
biến tích cực, rõ rệt trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính
trị trong sạch, vững mạnh, được nhân dân tin yêu, đồng tình, ủng hộ, góp phần
quan trọng vào việc thực hiện nhiệm vụ chính trị nói chung, thực hiện các nhiệm
vụ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và hội nhập
quốc tế nói riêng của Đất nước.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng
và những thách thức từ tình hình thế giới; để thực hành và vận dụng sáng tạo tư
tưởng Hồ Chí Minh trong đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực cầm quyền,
đảm bảo Đảng là người cầm lái vĩ đại, đưa dân tộc ta tiến lên mạnh mẽ trong Kỷ
nguyên mới, cần triển khai mạnh mẽ các nhóm giải pháp chiến lược, sau đây:
Thực hiện nghiêm phương thức lãnh đạo, cầm
quyền của Đảng, tuyệt đối không để xảy ra bao biện, làm thay hoặc buông lỏng sự
lãnh đạo của Đảng. Đảng lãnh đạo thông qua hệ thống chính trị mà Đảng là hạt
nhân; lãnh đạo bằng tư tưởng, đường lối, chính sách và sự tiên phong gương mẫu,
thường xuyên tự phê bình và phê bình của cán bộ, đảng viên; bằng thể chế hóa chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng thành pháp luật của Nhà nước; sự vận động,
thuyết phục Nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, giới thiệu đại
biểu ưu tú vào bộ máy nhà nước và thông qua công tác kiểm tra - giám sát. Đảng
cầm quyền bằng pháp luật, lãnh đạo định ra Hiến pháp và pháp luật, đồng thời hoạt
động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Sự lãnh đạo của Đảng để bảo đảm
quyền lực thực sự thuộc về Nhân dân, Nhà nước thực sự của dân, do dân và vì
dân.
Tập trung tinh gọn bộ máy, tổ chức các cơ
quan của Đảng, thực sự là “hạt nhân trí
tuệ”, là “bộ tổng tham mưu”, đội
tiên phong lãnh đạo cơ quan nhà nước. Xây dựng các cơ quan tham mưu của cấp ủy
thực sự tinh gọn; cán bộ tham mưu có phẩm chất chính trị, có năng lực, trình độ
chuyên môn giỏi, tinh thông nghề nghiệp, trách nhiệm và thông thạo công việc; bảo
đảm nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng không trùng với nhiệm vụ quản lý của Nhà nước.
Đổi mới mạnh mẽ việc ban hành và quán triệt,
thực hiện nghị quyết của Đảng; xây dựng các tổ chức cơ sở đảng, đảng viên thật
sự là các “tế bào” của Đảng. Nghị quyết
của các cấp ủy, tổ chức đảng phải ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ tiếp
thu, dễ thực hiện; phải xác định đúng và trúng yêu cầu, nhiệm vụ, con đường,
cách thức phát triển của đất nước, của dân tộc, của từng địa phương, từng bộ,
ngành; phải có tầm nhìn, tính khoa học, tính thực tiễn, thiết thực và tính khả
thi; tạo sự phấn khởi, tin tưởng, kỳ vọng và động lực thôi thúc hành động của
cán bộ, đảng viên, các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp và nhân dân thực hiện
Nghị quyết của Đảng. Việc quán triệt, thực hiện Nghị quyết phải tạo ra sự tự nhận
thức, tự thấm nhuần, nhất là những quan điểm, chủ trương, giải pháp mới. Tập
trung xây dựng chi bộ tốt, đảng viên tốt; nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ
và đưa chủ trương, đường lối của Đảng vào thực tiễn cuộc sống.
Đổi mới công tác kiểm tra; phát huy cao độ
vai trò kiểm tra, giám sát của các cấp ủy đảng, ủy ban kiểm tra các cấp. Tập
trung chuyển đổi số trong công tác đảng; xây dựng cơ sở dữ liệu tổ chức cơ sở đảng,
đảng viên và văn kiện của Đảng, kết nối từ Trung ương tới cơ sở, kết nối đồng bộ
với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và cơ sở dữ liệu khác, phục vụ hiệu quả
công tác bảo vệ chính trị nội bộ và xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
3.
Nắm vững tư tưởng “thượng tôn pháp luật”; thực hành quan điểm "nước lấy
dân làm gốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN
Việt Nam của dân, do dân, vì dân và công cuộc đổi mới, phát triển đất nước
Những giá trị cốt lõi trong tư tưởng Hồ
Chí Minh về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là: Nhà nước pháp quyền do dân là chủ và dân làm chủ; có “thần linh pháp quyền”, “thượng tôn pháp luật.;
“liêm khiết”, vững mạnh, hoạt động hiệu
quả; do Đảng Cộng sản lãnh đạo, có sự
thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc rộng
rãi …
Tư tưởng “nước lấy dân làm gốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự kế thừa, phát
huy truyền thống lịch sử hàng nghìn năm dựng nước, giữ nước của dân tộc và quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của nhân dân trong lịch sử; thể hiện
trên hai phương diện cơ bản, đó là: mọi hoạt động của Đảng, Nhà nước phải xuất
phát từ nguyện vọng, lợi ích chính đáng của nhân dân; phát huy trách nhiệm của
nhân dân trong sự nghiệp cách mạng. Tư tưởng đó có vị trí đặc biệt quan trọng,
xuyên suốt quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng ta.
Để chuẩn bị cho một bộ máy lãnh đạo có đủ
năng lực lãnh đạo đất nước tiến vào Kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên phát triển, kỷ
nguyên “mọi người dân đều có cuộc sống ấm
no, hạnh phúc, được hỗ trợ phát triển, làm giàu; đóng góp ngày càng nhiều cho
hòa bình, ổn định, phát triển của thế giới, hạnh phúc của nhân loại và văn minh
toàn cầu”; cuộc cách mạng thực hiện tinh gọn bộ máy chính trị hiệu năng -
hiệu lực – hiệu quả đang được tiến hành mạnh mẽ, với mục tiêu cuối cùng là xây
dựng một hệ thống quản lý nhà nước minh bạch, hiệu quả, phục vụ tốt nhất lợi
ích của người dân và doanh nghiệp.
Lịch sử ra đời, xây dựng, phát triển và
hoàn thiện của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đã chứng minh những
tư tưởng đúng đắn, vượt thời đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thấm nhuần sâu sắc
những di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam mà chúng ta đã nỗ lực xây dựng và hoàn thiện là Nhà nước của Nhân dân, do
Nhân dân, vì Nhân dân, do Ðảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; thượng tôn Hiến pháp
và pháp luật; tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ hiệu quả quyền con người, quyền công
dân; có nền hành chính, tư pháp chuyên nghiệp, pháp quyền, hiện đại; bộ máy nhà
nước tinh gọn, trong sạch, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, thực sự chuyên nghiệp, liêm
chính, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân.
Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22/12/2024 của
Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và
chuyển đổi số quốc gia đang khơi dậy sức mạnh sáng tạo và trách nhiệm của giới
khoa học; góp phần tạo những bước nhảy vọt, bứt phá cho đất nước; góp phần đẩy
mạnh cải cách và xây dựng nền hành chính công tiên tiến; đổi mới toàn diện việc
giải quyết thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ công không phụ thuộc địa giới
hành chính; cắt giảm thủ tục rườm rà, nâng cao chất lượng dịch vụ công trực tuyến,
dịch vụ số cho người dân và doanh nghiệp, tạo điều kiện mở đường cho kinh tế số
và tiến tới “xã hội số”.
4. Thực hiện ước nguyện của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, quyết tâm thực hiện thắng lợi mục tiêu tăng trưởng đạt 8% trở lên năm
2025 và tăng trưởng giai đoạn 2026 - 2030 liên tục đạt 2 con số
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói:
“Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc:
là làm sao cho nước nhà được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng
bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”[6]; “Cả đời tôi chỉ có một
mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc và hạnh phúc của quốc dân”[7]; “Một Đảng cầm quyền mà để cho người dân nghèo
hết còn chỗ để nghèo thì đó là lỗi của Đảng với nhân dân[8]”. Thực hiện ý nguyện
của Người, những thành quả của gần 80 năm thành lập nước và 40 năm đổi mới đã
mang lại cuộc sống đầy đủ ấm no cho các tầng lớp nhân dân. Việt Nam đã hoàn
thành mục tiêu thiên niên kỷ về xóa đói giảm nghèo trước 10 năm. Thời gian gần
đây nhiều chính sách quan tâm đến đời sống nhân dân như về miễn giảm học phí,
chính sách xóa nhà tạm, nhà dột nát, phát triển nhà xã hội .. đang được triển khai mạnh mẽ. Thực hiện di
huấn của Người “Văn hóa soi đường cho quốc
dân đi”[9], đời sống văn hóa, tinh thần
của Nhân dân được từng bước nâng cao. Văn hóa được xác định là nền tảng tinh thần
của xã hội, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc.
Đặc biệt, thực hiện ước nguyện của Người về
một quốc gia giàu mạnh, “sánh vai các quốc
năm châu”, cả hệ thống chính trị đang nỗ lực thực hiện những mục tiêu phát
triển bứt phá về kinh tế - xã hội, đó là các mục tiêu đã được xác định trong Đại
hội XIII của Đảng và mục tiêu tăng trưởng 8% trở lên năm 2025, tăng trưởng liên tục đạt 2 con số
giai đoạn
2026 - 2030.
Để đạt được các mục tiêu trên, cả hệ thống chính trị
đang tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp, khơi thông, giải phóng mọi nguồn
lực, tận dụng mọi cơ hội, khai thác tối đa các tiềm năng, thế mạnh để phát triển
nhanh và bền vững; thúc đẩy mạnh mẽ 3 đột phá chiến lược, nhất là đột phá về thể
chế. Tập trung thực hiện tốt Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá
phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; chủ
động triển khai các giải pháp toàn diện, đồng bộ về kinh tế, văn hóa, xã hội,
ngoại giao... để thúc đẩy thương mại công bằng, hài hoà, bền vững với Mỹ, Trung
Quốc, ASEAN, EU và các đối tác lớn của Việt Nam. Chủ động dự báo và có phương
án ứng phó với các yếu tố đột xuất, bất lợi như thiên tai, dịch bệnh, chiến
tranh thương mại, khủng hoảng kinh tế, xung đột vũ trang hoặc một số điều kiện
quốc tế khác về tài chính, kinh tế, thương mại...
5. Phát triển vận dụng tư tưởng của
Hồ chí Minh về xây dựng nền quốc phòng toàn dân trong bối cảnh hợp tác quốc tế
sâu rộng
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nền quốc phòng toàn dân là
xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng "từ Nhân dân mà ra, vì Nhân dân
chiến đấu", được tổ chức bằng ba thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa
phương, dân quân du kích); là xây dựng căn cứ địa cách mạng, khởi nghĩa toàn
dân, toàn diện và tiến hành chiến tranh nhân dân…; được hình thành trên cơ sở
tiếp thu nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về khởi nghĩa vũ trang và chiến
tranh cách mạng; đồng thời là sự kế thừa và phát triển lên tầm cao mới truyền
thống toàn dân đánh giặc “trăm họ là binh” của dân tộc ta. Tư tưởng của
Người đã được Đảng ta vận dụng sáng tạo đề ra những giải pháp chiến lược, huy động
được sức mạnh tổng hợp, tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo thế trận quốc
phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc qua
các giai đoạn cách mạng và tiếp tục phát huy trong thời kỳ phát triển mới của đất
nước.
Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh bao gồm hệ
thống những nguyên lý, quan điểm về các vấn đề thời đại, đường lối quốc tế, chiến
lược, sách lược, chính sách ngoại giao Việt Nam thời kỳ hiện đại. Các nguyên tắc
“dĩ bất biến, ứng vạn biến”, “Việt Nam sẵn sàng “làm bạn với tất cả mọi nước
dân chủ và không gây thù oán với một ai”[10]; “Tăng cường quan hệ hữu nghị với các nước
láng giềng bằng nhiều hình thức ngoại giao nhà nước đến việc thiết lập quan hệ
với chính quyền và nhân dân các địa phương sống chung cùng đường biên giới, giải
quyết xung đột bằng đàm phán thương lượng" [11]; “nước ta là một bộ
phận của thế giới. Tình hình của nước ta có ảnh hưởng đến thế giới, mà tình
hình thế giới cũng có quan hệ đến nước ta”[12]… trong tư tưởng
ngoại giao Hồ Chí Minh đã soi sáng chính sách đối ngoại Việt Nam dưới sự lãnh đạo
của Đảng trong 95 năm qua; góp phần tích cực vào việc mở ra các mối quan hệ hoà
bình, hữu hảo giữa Việt Nam và các nước trên thế giới; qua đó Việt Nam đã tranh
thủ được sự ủng hộ của dư luận tiến bộ trên thế giới đối với cuộc đấu tranh chính
nghĩa của nhân dân Việt Nam vì độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc
gia; đã tranh thủ nguồn lực bên ngoài cho phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng
cơ đồ, tiềm lực và nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của đất nước.
Ngày nay, công cuộc xây dựng và phát triển
đất nước đang bước vào một trang sử mới, nắm vững; phát huy những
tư tưởng của Người, chúng ta thực hành nghệ thuật ngoại giao thời đại mới trên
cơ sở cốt cách con người Việt Nam yêu hòa bình, đạo lý “lấy chí nhân thay cường bạo”, luôn giữ vững nguyên tắc độc lập, tự
chủ; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia, dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản
của luật pháp quốc tế; bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; duy trì môi trường hòa
bình, ổn định để phát triển đất nước; tăng cường đóng góp thiết thực của Việt
Nam trong duy trì hòa bình trong khu vực và trên thế giới.
***
Kỷ
niệm 135 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân
ta nguyện trung thành và tiếp nối sự nghiệp vĩ đại của Người; kiên quyết, kiên
trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ của Tổ quốc; phát huy mạnh mẽ
lòng yêu nước cách mạng, tinh thần “tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường,
tự hào dân tộc”, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vững bước vào Kỷ
nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, kỷ nguyên phát triển giàu mạnh, thịnh
vượng để sớm đạt được ước nguyện cao cả, thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh
trước lúc đi xa "Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một
nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần
xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới".
[1]
Báo Nhân dân, ngày 18/5/1965
[2]
Nghị quyết của UNESCO năm 1987
[3] Vào ngày 09/01/2008, Bí thư Đảng cộng sản Liên bang Nga D. T.
Novikov đã đến thăm nơi ở của Chủ tịch Hồ Chí Minh và viết trong sổ lưu niệm
tại Khu Di tích Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch
[4] Di chúc năm 1969, phần nói về Đảng
[5] Phát biểu của CT Hồ Chí Minh tại Lễ kỷ niệm 30 năm Ngày thành lập Đảng
(ngày5/1/1960)
[6]
CT Hồ Chí Minh trả lời các nhà báo nước
ngoài vào đầu năm 1946
[7]
5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2010, t.4, tr. 272
[8] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc
gia, H.2010, t.7, tr. 572
[9]
CT HCM phát biểu tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc tổ chức tháng 11-1946
[10]
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 5, tr.
256
[11]
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác
biên phòng, Nxb CTQG, H, 2001, tr. 262