1. Một số quan điểm sai trái, thù địch về chủ nghĩa xã hội
Ngay từ khi
mới ra đời cho đến ngày
nay, chủ nghĩa Mác
- Lênin nói chung, chủ nghĩa
xã hội khoa học nói riêng đã bị các thế lực thù địch
chống phá quyết
liệt. Đặc
biệt sau khi mô hình chủ nghĩa
xã hội
ở Liên Xô
và Đông
Âu sụp đổ, chủ nghĩa xã hội thế giới lâm vào thoái
trào,
không ít người
cho rằng chủ
nghĩa cộng sản đã cáo
chung; chủ nghĩa
xã hội chỉ là ảo tưởng không bao giờ
thực hiện được.
Có rất nhiều quan điểm phê phán con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam; nhất là vào những thời điểm có tính quyết định về đường hướng phát triển đất nước. Chẳng hạn, sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội; thời điểm chuẩn bị và thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991; thời điểm chuẩn bị và thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011); thời điểm tiến hành các Đại hội Đảng; thời điểm thông qua Hiến pháp, v.v..
Những năm gần đây, có một số
quan điểm cho rằng,
“Việt Nam kiên định con đường đi
lên chủ nghĩa xã
hội là đi theo vết
xe đổ của Liên Xô”,
“Việt Nam đang
phát triển theo con đường
tư bản
chủ nghĩa; ở Việt Nam chủ nghĩa tư
bản đang diễn
ra một cách cuồng nhiệt”(!), v.v..
Trước thềm Đại hội XIII của
Đảng, các thế lực
thù địch tiếp
tục đưa ra các
quan điểm tấn công, xuyên tạc mô hình và con đường đi
lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam. Khái quát lại
có hai
loại quan điểm chính: Một là, Việt
Nam bỏ qua
chế độ tư
bản là trái quy
luật, là
duy ý
chí nên chỉ thất
bại; Hai là, Việt
Nam đang đi
theo con đường tư bản chủ nghĩa và trá hình
chủ nghĩa xã
hội.
2. Luận cứ phê
phán quan điểm cho rằng Việt
Nam bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là trái quy luật, là duy ý chí nên chỉ thất bại
Quan điểm trên hoàn
toàn sai
trái. Xin
nêu những luận cứ chủ yếu:
Một là, Việt
Nam bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tiến lên chủ nghĩa
xã hội là
hợp quy luật phát triển của lịch
sử.
Xã hội loài
người phát triển
trải qua nhiều hình
thái kinh
tế - xã hội nối
tiếp nhau.
Trên cơ sở tổng kết sự phát triển của xã hội
loài người, phát hiện
ra các quy luật vận động, phát triển khách
quan của xã hội loài người, C.Mác đã rút ra
kết luận:
“sự phát triển
của những hình thái kinh tế - xã
hội là một quá trình
lịch sử - tự
nhiên”[1]. Các
hình thái kinh
tế - xã
hội vận động, phát triển theo
các quy
luật khách
quan, chứ không phải theo ý chí chủ quan
của con người. V.I.Lênin
viết: “Mác coi sự vận động xã hội là một quá trình lịch
sử - tự nhiên chịu sự chi phối của những quy luật không
những không phụ thuộc vào ý chí, ý
thức và ý định của con người, mà trái
lại, còn quyết định ý chí, ý thức và ý định của con người”[2].
Sự vận động, phát triển của các hình thái
kinh tế
- xã hội vừa
bị chi phối bởi các quy luật phổ biến, vừa bị chi phối bởi các quy luật
đặc thù. Các
quy luật phổ biến là quy luật về sự
phù hợp của
quan hệ sản xuất
với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất; quy luật
cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc
thượng tầng, v.v… Sự tác động của các quy
luật khách quan
làm cho các hình
thái kinh tế -
xã hội phát triển
thay thế nhau
từ thấp đến cao,
đó là con đường phát triển chung của lịch sử
xã hội loài
người.
Tuy nhiên, con
đường phát triển
của mỗi dân tộc
không chỉ bị chi phối
bởi các điều kiện phát triển cụ
thể của mỗi
dân tộc, như về
điều kiện tự nhiên, về chính trị, về truyền thống văn
hóa,
về tác động
quốc tế,... mà lịch
sử phát triển của
xã hội loài người
còn tuân theo những quy luật đặc thù, rất
phong phú,
đa dạng.
V.I.Lênin chỉ
rõ: “tính quy luật chung của
sự phát triển trong lịch sử toàn thế
giới đã không
loại trừ mà
trái lại,
còn bao hàm một số
giai đoạn phát triển mang những đặc điểm
hoặc về hình
thức, hoặc
về trình
tự của sự phát
triển đó”[3].
Tính đặc
thù trong lịch sử
phát triển
xã hội loài
người thể hiện ở hai điểm: (1) Cùng một hình thái
kinh tế -
xã hội nhưng ở
các nước khác
nhau có những hình thức cụ thể; (2) Có những
dân tộc lần lượt
trải qua tất cả các hình thái kinh tế - xã hội tuần tự
từ thấp đến cao,
nhưng cũng
có những dân tộc bỏ
qua một hay một
số hình thái kinh tế - xã hội nào đó.
Lịch sử phát
triển của xã
hội loài người đã
diễn ra như thế.
Việc bỏ qua đó cũng
diễn ra theo một quá trình lịch
sů tự nhiên, chứ không phải
theo ý muốn chủ quan. V.I.Lênin đã phát triển sáng tạo lý
luận về con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội.
Ông chỉ
ra hai con đường
quá độ lên chủ nghĩa xã hội: (1) Quá
độ trực tiếp
lên chủ nghĩa
xã hội. Đây là con đường tiến
lên chủ
nghĩa xã
hội đối với
các nước
tư bản chủ nghĩa;
(2) Quá độ lên chủ nghĩa xã hội thông qua nhiều khâu trung
gian, nhiều bước quá độ. Đây
là con
đường tiến lên
chủ nghĩa
xã hội
đối với các nước lạc hậu, kinh tế kém phát triển.
Vận dụng sáng
tạo chủ
nghĩa Mác Lênin, ngay từ
Chánh cương vắn tắt,
được thông qua
tại Hội nghị hợp
nhất ba tổ
chức Cộng
sản thành Đảng
Cộng sản Việt Nam, Đảng đã xác định làm tư sản
dân quyền cách
mạng và thổ địa cách mạng để đi tới
xã hội cộng
sản. Đến Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991, Đảng
xác định:
“Lịch
sử thế giới
đang trải qua những bước quanh co; song, loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội
vì đó
là quy luật tiến hóa
của lịch sử”[4]. Cương lĩnh
xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển
năm 2011) một lần
nữa khẳng định: “Theo quy
luật tiến hóa của
lịch sử,
loài người nhất
định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã
hội”[5], “Đi
lên chủ nghĩa
xã hội là khát vọng
của nhân
dân ta, là sự lựa chọn đúng
đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam
và Chủ tịch Hồ
Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”[6].
Hai là, thực tiễn phát triển của
cách mạng nước ta từ khi có
Đảng Cộng sản lãnh
đạo đã xác nhận: độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn.
Từ năm 1930 đến năm 1945, nhờ gắn
vấn đề độc lập dân tộc với mục tiêu, lý tưởng xã hội
chủ nghĩa,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã phát huy được sức mạnh to lớn của dân tộc,
tiến hành Cách mạng Tháng
Tám năm
1945, giành được
chính quyền
trong cả nước.
Cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp
diễn ra trong
9 năm (từ năm
1945 đến năm 1954), kết thúc bằng chiến thắng Điện Biên Phủ lịch
sử. Đó là
kết quả của đường lối độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ,
năm 1954 miền Bắc tiến hành xây dựng chủ nghĩa
xã hội, miền Nam
tiếp tục cuộc đấu
tranh chống
đế quốc Mỹ
xâm lược, Đảng ta
xác định nhiệm vụ
xây dựng
chủ nghĩa xã
hội là nhân tố
thường xuyên quyết định
thắng lợi
của cách
mạng cả nước. Với
đại thắng mùa Xuân
năm 1975, miền Nam được giải phóng, đất
nước thống
nhất, cả nước đi
lên chủ nghĩa
xã hội. Đó là
thắng lợi của độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội.
Đại hội VI
của Đảng (năm
1986) là Đại hội khởi xướng công cuộc đổi mới.
Đến nay, công
cuộc đổi mới đã qua 35 năm và
30 năm thực hiện Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Lý luận về đổi
mới, về
chủ nghĩa
xã hội và con
đường đi
lên chủ nghĩa xã
hội ở
nước ta
ngày càng được
bổ sung, hoàn thiện
và từng bước được
hiện thực hóa. Đất nước đạt được những thành tựu to
lớn, có ý nghĩa
lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm
trước đổi
mới.
Quy mô, trình
độ nền kinh tế
được nâng lên. Đời sống nhân dân về vật
chất và tinh
thần được cải
thiện rõ rệt. Đất
nước ta chưa
bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc
tế như ngày
nay.
Những thành tựu của 35
năm thực hiện công cuộc đổi mới,
30 năm thực
hiện Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội đã khẳng định đường lối
đổi mới của Đảng
ta là
đúng đắn, sáng
tạo, khẳng
định con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp
với thực tiễn Việt Nam và xu
thế phát triển
của lịch sử.
Ba là, không
thể có sự
lựa chọn nào khác.
Nhân dân Việt
Nam đã từng sống
cơ cực dưới
ách thống
trị của chủ
nghĩa thực dân cũ
và mới, đã thấy rõ
mặt trái của chủ
nghĩa tư bản.
Chủ nghĩa tư bản có vai trò to lớn trong lịch sử
phát triển của xã
hội loài người. Hiện
nay, chủ nghĩa tư bản vẫn còn
khả năng tự điều chỉnh
để tồn tại
và phát triển,
đạt được những
thành tựu to lớn trong lĩnh
vực kinh
tế, giáo dục
- đào tạo,
khoa học - công
nghệ, nhưng bản chất của
chủ nghĩa tư bản vẫn không thay đổi. Chủ
nghĩa tư
bản không
phải là
tấm gương phổ
biến cho nhân loại. Chính các học giả
tư bản đã thừa
nhận các
ung nhọt không thể
chữa khỏi. Xin nêu ý kiến của
một nhà triết học
và một nhà chính trị học.
Giắccơ Đêrida - nhà triết
học Pháp nổi tiếng,
trong cuốn sách
Những bóng ma của Mác, xuất bản năm 1993,
đã nêu lên 10 ung nhọt của trật tự
thế giới
mới:
(1) Nạn thất nghiệp; (2) Việc loại trừ hàng loạt
công dân
không nhà ở khỏi
mọi sự tham gia
và đời sống dân chủ của các quốc gia,
trục xuất,
lưu đày những
người lưu vong, không quốc
tịch; (3)
Cuộc chiến tranh không thương tiếc
giữa các nước tư
bản hàng đầu; (4)
Sự bất lực trong việc chế ngự những mâu thuẫn về
chuẩn mực và thực
tế của thị
trường tự do; (5)
Sự gia tăng nợ nước
ngoài; (6) Công nghiệp và buôn
bán vũ khí; (7)
Sự phát triển vũ
khí nguyên tử vượt
khỏi sự kiểm soát
quốc tế;
(8) Chiến tranh
sắc tộc ngày càng nhiều; (9) Những nhà nước
- ma siêu
lực xâm nhập
vào các tổ chức kinh tế - xã hội,
vào sự lưu thông
tư bản, vào
cả các thiết chế
quốc gia và liên
quốc gia, (10) Sự bất bình đẳng giữa các quốc
gia trước pháp
luật. Sự
bá quyền của
một số
quốc gia trong
lĩnh vực luật pháp và thiết
chế quốc
tế.
Những ung nhọt đó, các nước tư bản tìm mọi
cách để che giấu
đi. Giắccơ Đêriđa kêu gọi phải chiến đấu chống lại theo tinh thần của C.Mác.
Trong cuốn
Ngoài vòng kiểm soát, xuất bản năm 1993 của Brêdinxky
đã chỉ ra 20 khuyết tật của
xã hội Mỹ và dự báo Mỹ sẽ mất vai trò
siêu cường vào
thế kỷ XXI: (1) Nợ nần; (2)
Thâm hụt
thương mại;
(3) Khối lượng tiền
tiết kiệm vào
đầu tư thấp;
(4) Không có khả năng
cạnh tranh công nghiệp; y
tế (5) Tỷ lệ tăng năng suất lao động thấp; (6) Chăm sóc
y không đầy đủ;
(7) Giáo dục trung học chất lượng kém; (8)
Kết cấu hạ tầng của xã hội xấu
đi và tình trạng
sa sút lan tràn ở đô thị; (9)
Một giai cấp giàu có tham lam; (10) Tình trạng kiện
tụng tràn lan không
đem lại lợi ích gì; (11) Vấn đề chủng tộc và
nghèo đói ngày
càng sâu sắc;
(12) Tội ác và bạo lực tràn lan; (13)
Sự lan tràn của
nền văn minh ma túy ồ ạt; (14)
Tình trạng lan
tràn tâm lý tuyệt vọng xã hội; (15)
Quá nhiều giấy
phép mại
dâm;
(16) Sự truyền bá
ồ ạt về đồi trụy
tinh thần bằng phương tiện nghe nhìn; (17) Suy
giảm về ý
thức công nhân; (18) Sự nổi lên của nền văn
hóa đa phương có
nhiều nguy
cơ chia rẽ; (19) Một yếu tố trở ngại đang xuất
hiện trong hệ thống chính trị. Nó
làm cho cử tri càng
thấy chính quyền của mình rất
xa xôi, thiếu
trách nhiệm, và
tham nhũng, đặc quyền, đặc lợi về giai cấp
tinh hoa chính trị được hưởng những cơ hội không
công bằng, được ngồi
vững vàng trong
chức vụ
của mình;
(20) Cảm giác tuyệt
vọng về tinh thần ngày càng phổ biến.
Những nhận xét,
đánh giá về chủ
nghĩa tư bản của Giắccơ Đêriđa và Brêdinxky đến nay vẫn đúng.
Bản chất của chủ
nghĩa tư bản vẫn không thay đổi.
Mâu thuẫn cơ
bản vốn có của chủ nghĩa tư bản
giữa tính chất xã
hội hóa ngày càng cao
của lực lượng sản
xuất và chế độ
chiếm hữu tư bản
tư nhân tư bản
chủ nghĩa ngày càng sâu sắc. Chính từ mâu thuẫn này đã dẫn tới mâu thuẫn
giữa các tầng lớp nhân dân với giai cấp tư sản, giữa các tập
đoàn tư bản độc quyền, các công ty xuyên quốc
gia, các trung
tâm tư bản tiếp tục phát triển. Mâu thuẫn giữa các nước
tư bản phát triển
vẫn tiếp tục gay
gắt. Mâu thuẫn
giữa các thế lực cường quyền, hiếu chiến muốn thống trị
thế giới
với nhân dân thế
giới đấu tranh cho hòa bình, độc lập dân tộc, công
bằng, dân chủ
và tiến bộ
xã hội... Chủ nghĩa
dân tộc
cực đoan, chủ nghĩa cường quyền nước lớn, chủ nghĩa
thực dụng, chủ
nghĩa dân túy
trong quan hệ quốc
tế gia
tăng. Hoặc chủ nghĩa
tư bản không
vì con người thể hiện trong
phòng, chống đại
dịch Covid-19 ở
các nước tư bản chủ nghĩa
như Mỹ, Ấn Độ, Braxin,...
là một minh chứng. Ở các nước này
số ca nhiễm và
số ca tử vong rất cao.
Cũng có một số
ý kiến cho
rằng nước ta
nên đường xã hội dân chủ. Thật
ra mô hình
xã hội - dân chủ
chỉ là một hình thái của chế độ
tư bản
chủ nghĩa.
Như vậy, cả
về lý
luận và thực tiễn,
cả thực tế
trong nước và
trên thế giới đều chỉ ra rằng, muốn thay
đổi căn
bản địa vị, cuộc sống của nhân dân lao động, không
có con đường
nào khác ngoài con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội. Mọi
con đường khác
đều không được nhân dân lao động nước ta chấp nhận.
3. Luận cứ phê
phán quan điểm cho rằng Việt Nam đang đi theo con đường tư bản chủ nghĩa và
trá hình chủ nghĩa xã hội
Quan điểm trên hoàn
toàn sai
trái. Xin nêu
những luận cứ
chủ yếu:
Một là, Đảng Cộng
sản Việt Nam
nhận thức ngày
càng rõ hơn nội dung bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa.
Đại hội VI
của Đảng (năm 1986) xác định: “Thời kỳ quá độ
ở nước ta, do
tiến thẳng
lên chủ nghĩa
xã hội từ một nền
sản xuất nhỏ, bỏ
qua giai đoạn
phát triển
tư bản chủ
nghĩa, đương nhiên
phải lâu dài
và rất khó khăn.
Đó là một
thời kỳ cải biến cách mạng
sâu sắc, toàn
diện, triệt để nhằm xây dựng từ đầu một chế độ xã
hội mới cả về lực
lượng sản xuất, quan hệ sản
xuất và kiến
trúc thượng tầng.
Đó là một thời kỳ đấu tranh giai cấp
phức tạp, đấu
tranh giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa
trên tất
cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội nhằm giải quyết vấn đề “ai thắng ai”[7].
Đến Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa
xã hội năm
1991, Đảng xác định: “Nước ta quá
độ lên chủ nghĩa
xã hội, bỏ qua chế
độ tư bản, từ một xã hội vốn là thuộc địa, nửa phong
kiến, lực lượng
sản xuất rất thấp”[8]. Như vậy, Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 có
bước nhận thức
mới - nước ta
quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa chứ không phải bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa,
nhưng chưa định rõ nội dung bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Đến Đại
hội IX (năm 2001), Đảng xác định: “Con đường đi lên của nước ta là sự phát
triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua
việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư
bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được
dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là về khoa học và công nghệ, để phát
triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.
Xây dựng
chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của
xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên
phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức
tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ”[9]. Đây là
bước tiến về nhận thức của Đảng khi xác định rõ nội dung bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa.
Hai là,
Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức về chủ nghĩa xã hội ngày càng rõ hơn.
den udo
Trong những cương lĩnh đầu tiên “Chính cương vắn tắt”, “Sách lược vắn tắt”
(tháng 2 năm 1930) và “Luận cương chính trị” (tháng 10 năm 1930), Đảng đã chỉ
rõ quá trình cách mạng không ngừng. Trước mắt, làm cách mạng tư sản dân quyền
tiến lên con đường cách mạng vô sản. Đây là nhận thức đầu tiên rất quan trọng
của Đảng về quan hệ biện chứng giữa cách mạng tư sản dân quyền và cách mạng vô
sản.
Đại hội II
của Đảng (năm 1951) dự báo, con đường đi đến chủ nghĩa xã hội là con đường khó
khăn, lâu dài, cơ bản trải qua ba giai đoạn: giai đoạn thứ nhất, nhiệm vụ chủ
yếu là hoàn thành cách mạng giải phóng dân tộc; giai đoạn thứ hai, nhiệm vụ chủ
yếu là xóa bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, thực hiện triệt để
người cày có ruộng, phát triển kỹ nghệ, hoàn chỉnh chế độ dân chủ nhân dân;
giai đoạn thứ ba, nhiệm vụ chủ yếu là xây dựng cơ sở cho chủ nghĩa xã hội, tiến
lên thực hiện chủ nghĩa xã hội. Ba giai đoạn này không tách rời nhau, mà liên
hệ mật thiết và xen kẽ lẫn nhau.
Đại hội
III của Đảng (năm 1960) đã đưa ra những nhận thức cơ bản về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc nước ta. Đại hội bước đầu phác họa
những đường nét cơ bản về xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta sẽ xây dựng ở
miền Bắc: xã hội ấm no, hạnh phúc; có nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối và
hiện đại, kết hợp chặt chẽ công nghiệp với nông nghiệp, quan hệ sản xuất mới
với các hình thức khác nhau của chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa; nhân dân lao
động có đời sống vật chất, tinh thần không ngừng được nâng cao; xã hội mới mà
cơ sở là liên minh giữa giai cấp công nhân với các tầng lớp nhân dân lao động
khác, chủ yếu là giữa công nhân và nông dân tập thể; có quan hệ hữu nghị quốc
tế, trước hết là sự đoàn kết, hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa do Liên Xô
đứng đầu. Về định hướng con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Đại hội
xác định, phải sử dụng nhà nước dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ chuyên chính vô
sản; tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội, trọng tâm
là công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, đưa miền Bắc từ nền kinh tế chủ yếu dựa
trên sở hữu cá thể về tư liệu sản xuất tiến lên nền kinh tế xã hội chủ nghĩa
dựa trên sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, từ nền sản xuất nhỏ tiến lên nền
sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, từ tình trạng kinh tế rời rạc và lạc hậu tiến
lên một nền kinh tế cân đối và hiện đại; tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa
về tư tưởng, văn hóa, kỹ thuật; tăng cường đoàn kết toàn dân trên nền tảng liên
minh công nông; tăng cường đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa do Liên Xô
đứng đầu.
_ Đại hội
IV của Đảng (năm 1976) đã xác định đường lối chung của cách mạng xã hội chủ
nghĩa trên phạm vi cả nước. Đại hội chỉ rõ: “Nắm vững chuyên chính vô sản, phát
huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động; tiến hành đồng thời ba cuộc
cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách
mạng tư tưởng và
văn hóa,
trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt; đẩy mạnh công nghiệp hóa
xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội; xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền sản xuất
lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hóa mới, xây dựng con người mới xã hội
chủ nghĩa; xóa bỏ chế độ người bóc lột người, xóa bỏ nghèo nàn và lạc hậu;
không ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên củng cố quốc phòng, giữ gìn an ninh
chính trị và trật tự xã hội; xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam hòa bình, độc
lập, thống nhất và xã chủ nghĩa; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của hân
dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và rủ nghĩa xã hội”[10]; “Phấn
đấu hoàn thành về cơ bản quá ình đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên
sản xuất n xã hội chủ nghĩa trong khoảng thời gian hai mươi năm”[11].
Đại hội IV
của Đảng đã xác định rõ hơn tính chất, đặc iểm của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam: “Cách ạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là một quá trình biến đổi ách
mạng toàn diện, liên tục, vô cùng sâu sắc và triệt để. Đó à quá trình kết hợp
cải tạo với xây dựng, cải tạo để xây ựng, xây dựng để cải tạo, trong cải tạo có
xây dựng, trong ây dựng có cải tạo, mà xây dựng là chủ yếu. Đó là quá trình ừa
xóa bỏ cái cũ, vừa xây dựng cái mới từ gốc đến ngọn. Phải tạo ra cả lực lượng
sản xuất mới lẫn quan hệ sản xuất nới; tạo ra cả cơ sở kinh tế mới lẫn kiến
trúc thượng tầng mới; tạo ra cả đời sống vật chất mới lẫn đời sống tinh thần và
văn hóa mới. Đó là quá trình đấu tranh giai cấp gay go, phức tạp giữa hai giai
cấp tư sản và vô sản, giữa hai con đường tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa”[12].
Đại hội V
của Đảng (năm 1982) tiếp tục khẳng định những nhận thức và định hướng chung của
Đại hội IV, đồng thời bước đầu có một số điều chỉnh về định hướng công nghiệp
hóa xã hội chủ nghĩa, về vận dụng quan hệ hàng hóa - tiền tệ, quan hệ thị
trường...
Những nhận
thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta thời kỳ
trước đổi mới tuy còn những hạn chế do hoàn cảnh lịch sử, song đó là những tiền
đề lý luận rất quan trọng để Đảng kế thừa có chọn lọc, tiếp tục phát triển,
từng bước hoàn thiện trong quá trình lãnh đạo công cuộc đổi mới.
Đại hội VI
(năm 1986) là Đại hội khởi xướng công cuộc đổi mới. Đại hội nhận thức sâu sắc
hơn tính tất yếu, lâu dài, khó khăn của thời kỳ quá độ; khẳng định nước ta đang
ở chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ; xác định “nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát trong những năm còn lại của
chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục
xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa trong chặng đường tiếp theo”[13].
Đại hội chủ trương, sau Đại hội sẽ xúc tiến xây dựng một cương lĩnh hoàn chỉnh
cho toàn bộ cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ, xác định đây
“là sự kiện chính trị có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự chỉ đạo cách mạng
trong một thời kỳ tương đối dài, đặt nền tảng chính trị, tư tưởng cho mọi hoạt
động của Đảng, Nhà nước và xã hội”[14].
Đại hội
VII của Đảng (năm 1991) đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh năm 1991 đã xác định xã hội xã hội chủ
nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội:
“- Do nhân dân lao động làm chủ.
- Có một
nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công
hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
qud daid
bod jog job done
- Có nền
văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Con
người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng
theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển
toàn diện cá nhân.
- Các dân
tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.
- Có quan
hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới”[15]. Ven
hongnd douslo Cương lĩnh năm 1991 xác định bảy phương hướng cơ bản cần nắm vững
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc ở nước ta là: (1)
Xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thực
hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân; (2) Phát triển lực lượng sản xuất, công
nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông
nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm; (3) Thiết lập từng bước quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu; phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước; (4) Tiến hành cách
mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa; (5) Thực hiện chính
sách đại đoàn kết dân tộc, chính sách đối ngoại hòa bình, hợp tác và hữu nghị
với tất cả các nước; (6) Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai
nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam; (7) Xây dựng Đảng trong sạch, vững
mạnh.
Đại hội X
của Đảng (năm 2006) tiến hành tổng kết 20 năm đổi mới, làm sáng tỏ hơn nhận
thức của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta. Đại hội khái quát tám đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa và xác định tám
phương hướng cơ bản trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Đại hội XI
của Đảng (năm 2011) đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011). Cương lĩnh này đã bổ
sung, phát triển những nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Về đặc
trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: “Xã hội xã
hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao
dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có
nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự
do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng
Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng
Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”[16].
Về những
phương hướng cơ bản đi lên chủ nghĩa xã hội, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định:
“Một là,
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri
thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Hai là,
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba là, xây
dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng
cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an
toàn xã hội.
Năm là,
thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và
phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Sáu là,
xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc,
tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.
Bảy là,
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân.
Tám là,
xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh”[17].
Trên cơ sở
tổng kết thực tiễn, nhất là tổng kết 30 năm đổi mới, đẩy mạnh công tác nghiên
cứu lý luận, tham khảo kinh nghiệm quốc tế, các hội nghị Trung ương khóa XI,
Đại hội XII và các hội nghị Trung ương khóa XII tiếp tục cụ thể hóa, bổ sung,
làm sáng rõ hơn những nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta đã được trình bày trong Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011).
Về đặc
trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa, Đảng nhận thức sâu sắc hơn mối quan hệ khăng
khít, biện chứng giữa các đặc trưng cơ bản về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Nội hàm của từng đặc trưng được bổ sung
những nhận thức mới, phù hợp với tình hình mới, yêu cầu mới, nổi bật là nhận
thức về vai trò là chủ, làm chủ của nhân dân; về phát triển kinh tế nhanh, bền
vững, hiện đại hóa lực lượng sản xuất trên nền tảng khoa học công nghệ gắn với
quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp; về vai trò là sức mạnh nội sinh, động lực
phát triển của văn hóa, vai trò chủ thể và trung tâm của con người; về đoàn kết
dân tộc, sự gắn bó dân tộc và nhân loại, quốc gia và quốc tế trong xu thế toàn
cầu hóa; về dân chủ và pháp quyền; về lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc
trong quan hệ quốc tế...
Về những
phương hướng cơ bản, Đảng đã có những nhận thức sâu sắc, đầy đủ hơn về đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên cơ sở đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu
lại nền kinh tế, thực hiện ba đột phá chiến lược, phát triển nhanh, bền vững,
nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế; về hoàn thiện
thể chế phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hiện đại,
hội nhập quốc tế. Đảng đã bổ sung nhận thức về mối quan hệ giữa phát triển văn
hóa và xây dựng con người; về đúc kết, phát huy hệ giá trị văn hóa, sức mạnh và
giá trị của con người Việt Nam; về nâng cao mọi mặt đời sống của nhân dân, thực
hiện hiệu quả tiến bộ, công bằng xã hội trong từng chính sách, từng bước phát
triển. Nhận thức về bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã
hội được hoàn thiện trên cơ sở phát triển Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình
hình mới. Phương hướng thực hiện đường lối đối ngoại, hội nhập quốc tế tiếp tục
được bổ sung, phát triển gắn với yêu cầu giữ vững môi trường hòa bình, ổn định,
bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc; xử lý hiệu quả hợp tác và đấu
tranh, đối tác và đối tượng. Phương hướng xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường, mở rộng Mặt trận Dân
tộc thống nhất được bổ sung những nhận thức mới về tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ
quyền con người, đề cao trách nhiệm, nghĩa vụ công dân; thực hiện vai trò giám
sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội. Về
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân, Đảng nhấn mạnh yêu cầu kiểm soát quyền lực nhà nước; xây dựng tổ chức
bộ máy tinh gọn, tăng cường phân cấp, phân quyền, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Phương hướng xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh được bổ nhận thức mới về xây
dựng Đảng toàn diện: chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; về xây dựng
Đảng gắn với chỉnh đốn Đảng, đấu tranh chống suy thoái tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; chú
trọng xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược có phẩm chất, năng lực và uy tín
ngang tầm nhiệm vụ.
Từ đó có
thể khẳng định lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam ngày càng được xác định. So với chủ nghĩa tư bản đây là sự khác biệt
về chất. Nếu có gì gần giống thì có hai vấn đề: (1) Đó là phát triển nền kinh
tế thị trường. Kinh tế thị trường là thành tựu văn minh của nhân loại, được
phát triển mạnh trong chủ nghĩa tư bản. Chúng ta chủ trương phát triển nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; (2) Đó là xây dựng Nhà nước pháp
quyền. Nhà nước pháp quyền cũng là thành tựu của nhân loại. Chúng ta xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Từ đó có thể khẳng định Việt Nam không đi
theo cor đường tư bản chủ nghĩa. Hiện
Chúng ta
kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Các đặc trưng của xã hội xã hội
chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng từng bước được hiện thực hóa. Quy mô nền kinh
tế và thu nhập bình quân đầu người tăng nhanh. Đến năm 2020, GDP ước 268,4 tỷ
USD và GDP bình quân đầu người ngày càng tăng: năm 1945 đạt 35 USD, năm 1975
đạt 8 USD, năm 1985 đạt 159 USD, năm 1990 đạt 182 USD, đến năm 2020 ước đạt
2.750 USD. Trong năm 2020, đại dịch Covid-19 tác động lớn đến Việt Nam, gây ra
nhiều khó khăn, thách thức, nhưng nhờ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, sự ưu
việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, sự vào cuộc đồng bộ, quyết liệt của cả hệ
thống chính trị dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, Việt Nam đã kiểm soát thành
công đại dịch Covid-19; từng bước phục hồi sản xuất kinh doanh; ổn định đời
sống nhân dân. Nhân dân tin Đảng, tin Nhà nước, tin chế độ xã hội chủ nghĩa.
[1]. C. Mác và Ph.Ăngghen: Toàn
tập, Sđd, t.23, tr. 21.
[2].
V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1974, t.1, tr.200.
[3].
V.I. Lênin: Toàn tập, Sđd, 1978, t.45, tr.431.
[4].
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.51, tr.133.
[5].
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, Sđd, tr.69, 70.
[8]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập,
Sđd, t.51, tr.133.
[9]. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.60, tr.179.
[11].
nt
[12].
nt
[13].
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.47, tr.550, 375.
[14].
nt
[15].
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.51, tr.134.
[16].
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd,
tr. 70.
[17].
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd,
tr.72.