Tết là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới. Đây cũng là dịp những người con xa quê trở về sum vầy bên gia đình, thăm viếng người người thân, dòng tộc... Qua đó, để gìn giữ phát huy các giá trị tốt đẹp của văn hóa gia đình Việt Nam "cây có cội, sông có nguồn". Với sự phát triển không ngừng của xã hội hiện nay, các giá trị gia đình đang có nhiều thay đổi. Nhân dịp này chúng tôi xin gửi đến một số thông tin ít ỏi về văn hóa gia đình ở thị xã Hương Thủy mà chúng tôi sưu tầm được.
1. Thứ bậc huyết thống:
Nếu lấy người đàn ông đã có vợ và làm chủ gia đình làm trung tâm, thì bậc trên gồm: cha (hiển
khảo), mẹ (hiển tỉ), ông nội (tổ khảo), bà nội (tổ tỉ), cố ông (tằng tổ khảo), cố bà (tằng tổ
tỉ), sơ ông (cao tằng tổ khảo), sơ bà (cao tằng tỉ khảo), và kế tiếp, thêm các chữ cao phía trước, không
còn
tên Việt để gọi nữa; bậc dưới gồm: con, cháu, chắt, chút Cách gọi các bậc bề trên khi chuyển sang phía mẹ, có kèm tiếng “ngoại”, phía bà nội, bà ngoại
cũng vậy; cuối cùng, chỉ những vị cùng họ (và vợ của các vị này) mới được tính là nội và gia chủ có trách nhiệm thờ cúng. Suy theo đó, thì ông bà ngoại (và bậc trên của ông ngoại)
được anh (em) trai của mẹ thờ; bố mẹ của bà ngoại được anh em con cậu của mẹ thờ; bố mẹ của bà nội được anh em con cậu của cha thờ. Các tên gọi theo hình thức Hán cũng thường dùng cho phía nội đã nói.
Sự phân biệt nội ngoại này được người địa phương ý thức rất rõ qua việc chạp, ngày giỗ lớn của gia tộc kết hợp
vơi việc sửa
chữa mồ mả trong họ phái. Ngoài chạp
họ,
chạp phái, chạp chỉ lễ chạp cùng họ nhỏ nhất dưới đó, được
gọi là
chạp nhà. Người đàn ống đã có vợ, đã trưởng thành xem đây là một trách nhiệm lớn phải gánh vác để làm vui lòng người đã khuất và giữ nề nếp cho con cháu. Chạp nhà chỉ chạp những mồ mả có
họ với
gia chủ (và vợ
của những vị này) trong phạm vi năm bảy đời; chú, bác, cỏ và anh em gia chủ cũng gọi là chụp nội. Lấy hàng ông bà để tính, chạp
nội thuộc
ông nội. Phía bà nội, chạp mộ chính là bố mẹ của bà nội và những người có họ với
bà nội, nên cũng gọi là chạp họ hệ nội, phía ông ngoại, mộ chính là ông bà ngoại và những
người
có họ với mẹ, nên cũng gọi là chạp họ mẹ; phía bà ngoại, mộ chính là bố mẹ của
bà ngoại và những người có họ với bà ngoại, nên cũng gọi là chạp họ mẹ ngoại. Ba cái chạp này đều là chụp
ngoại, có trách nhiệm đóng góp công của
nhưng
không quá ràng buộc và được miễn
lo về tổ chức.
Do quyền lợi (quyền thừa kế, thừa tự...) và nghĩa vụ nghiêng hẳn về phía nội, nên nảy ra xu hướng trọng nội hơn ngoại, nội thì “mười đời không rời cánh tay”, ngoại thì đến năm đời là chẳng còn bà con gì nữa.
2. Cung cách thờ phụng tổ tiên và các gia thần:
Bàn thờ tổ tiên được đặt
ở phần trong, gian giữa của
nhà,
được chưng bày tương đối thống nhất như sau: hai bên là cặp
đèn
đối xứng qua bát hương ở giữa, nếu
có lư đồng thì đặt sau bát hương để xông trầm, bên trái
bát
hương có cơi bày đĩa đựng cau trầu,
bên phải có cơi bày chén đựng rượu (gọi là tả phù hữu
thủy), phía sau hai chiếc cơi là một lọ
hoa và một chiếc quả bồng để đơm chuối hay quả chín, theo hướng bát hương (hướng nhà), thì lọ hoa đặt bên trái, quả bồng bên phải (gọi là tả hoa hữu quả). Đó là mặt ngoài bàn thờ, thường chưng ở trên một chiếc
tủ đặc biệt (gọi là tủ thờ),
sau đó đến một cái bàn thấp hơn dùng để bày phẩm vật khi dâng cúng, trong cùng
là các bát hương được sắp theo tầng bậc cao trên thấp
dưới.
Ở những gia đình có thờ các vị tổ tiên cáo đời, còn có khám thờ đặt trong cùng, hoặc ngai
thờ (thờ vị tổ
tiên xuất thân khoa bảng, hay người được vua ban sắc bằng). Ngoài bàn thờ tổ tiên,
có
nhà còn lập bàn thờ tiên sư (thánh sư,
nghệ sư), đặt một bên bàn thờ tổ tiên, bàn thờ thần tài đặt trệt ở nền nhà. Riêng bàn thờ ông Táo, được đặt phía trên
bếp lửa của gia đình; khám thờ thần bảo hộ phụ nữ
(Tây
cung vương mẫu bổn mạng thánh đức tiên bà) ở một vị trí cao của gian bên trái, trông về hướng tây"
Tổ tiên trong quan niệm
dân gian vẫn thường xuyên liên hệ với con cháu đang sống, để giúp đỡ, hỗ trợ. Vì vậy, trước mỗi biến cố, thành công hay thất bại, con cháu đều khấn
vái (như báo cáo sự
việc
và cầu xin được tiếp tục giúp đỡ). Đáng chú ý trong việc thờ tổ tiên là vai trò của các bà cô nhị đại, tam đại hay tứ đại, nhất là những
bà chết khi chưa chồng hoặc có chồng nhưng đã hồi tôn. Bàn thờ các cô không chung cùng với bàn thờ tổ tiên mà được lập am trước sân để thờ riêng. Các ông thầy cúng, thầy bói thường đem chuyện các bà cô cứu hộ (hay giáng họa)
để nói với thân chủ, và hầu
hết đều kính sợ mà lo
thờ phụng
chu đáo (lý do có thể thuộc vào tâm lý sau: các bà cô không chồng con thường thương cháu như con đẻ, trong lúc cháu thì không mấy người có tình cảm tương
xứng).
Việc thờ cúng, khấn vái tổ tiên là việc làm thường
xuyên, nhưng chu đáo và tập
trung hơn là vào những ngày sóc, vọng
(mồng một, rằm), lễ
tiết, đặc biệt
là ngày giỗ kỵ
và ngày chạp.
Ngày kỵ nhằm vào ngày mất,
tính theo âm lịch bằng cách “cộ đem tới, mới đem lui”, tức mới chết (trong vòng
ba năm) thì kỵ trước ngày mất một ngày, sau đó mới kỵ đúng ngày mất. Đối
với những
ngày giỗ
lớn
(giỗ ông bà, cha mẹ...) có hai lễ: lễ tiên thường vào buổi chiều hôm trước ngày kỵ, gồm
một
mâm cơm để đón người mất trở về (nên còn gọi lễ
này là cơm hôm);
lễ chính kỵ vào hôm sau thì “tùy gia phong kiệm”, có thể làm gà vịt,
lợn hò... Điều quan trọng là phải
hết lòng thành
kính, không được ăn trước các thứ dùng để dâng cúng (có người kiêng điều này đến không dám nếm thử lúc kho nấu), khi sắp bày phải thật tươm tất, đúng quy định (như sắp đĩa cau trầu thì năm miếng cau, khi đặt lên cơi thì hàng cau hướng ra ngoài phía người cúng).
Lễ chạp hiện nay thường được tổ chức vào tháng 10, 11 âm lịch, chọn theo
ngày
kỵ của một trong số các vị đứng đầu nhánh, phái, họ tộc
thích
hợp với thời điểm này. Lý do có lẽ tránh chuyện xuống
vụ đông xuân vào tháng chạp, vì mỗi người đã lập gia đình, như đã nói, phải dự
đến
10 cái chạp (bốn cái bên chồng, bốn cái bên vợ và hai cái của chi, họ người chồng), cộng với nhiều chuyện
hiếu
hỉ khác, thì việc mùa vụ sẽ hết sức khó khăn. Cỗ chạp chủ yếu là thịt heo luộc và xôi. Ở vài nơi còn có thêm món cháo bằng nước
luộc heo, hoặc như ở làng Thanh Thủy Thượng có tục nấu bánh canh để trẻ con
được ăn suốt buổi (cháo, bánh canh không dâng cúng).
Ở mỗi gia đình còn có các lễ cúng gia thần: thần cửa ngõ, thần
tài, tiên sư, thổ công, táo quân, tây cung vương
mẫu... Cúng thần cửa ngõ, thần tài, tiên sư, táo
quân tương tự các nơi, riêng lễ cúng thổ công (cúng đất) và tây cung vương mẫu (cúng thành), có vài điểm đáng lưu ý.
Cúng đất là dâng cúng cho các vị thần đất và các thần phối thuộc, vào tháng hai hoặc tháng tám âm lịch. Lễ này thiết ba bàn
(thượng, trung, hạ) trước cửa nhà, lạy từ trong ra. Bàn thượng có hương đèn, hoa quả, trái cau để nguyên với lá trầu quệt
vôi,
giày mũ thổ thần (hàng mã), con gà trống luộc có chiếc
dao con và dăm hạt muối phía dưới cùng là đĩa xôi đầy; xung quanh các lễ
vật
chính này, có thể sắp thêm xôi chè. Bàn
trung gồm một mâm cơm, ba đĩa cua trứng (mỗi đĩa một con cua, hai cái
trứng
vịt luộc), một khổ thịt hay cái giò heo. Đặc biệt ở mâm cơm cỗ, có đĩa rau khoai luộc, chén mắm nêm và một gắp cá tôm nướng. Bàn hạ đặt cháo, gạo, muối, hạt nổ và áo binh ở hai bên, ở giữa là mâm khoai,
sắn, ngô,
đậu... xếp chung. Trong văn điệp cúng đất, ở danh sách dâng cúng có “Man nương thần nữ, chúa Lồi, chúa Lạc, Chăm, Chợ, Mọi, Rợ, Man, Ri...” là nhằm chỉ những vị thần không phải người Việt. Cúng xong, gia chủ sớt một ít vật thực và số
rau
khoai, cá tôm nướng bỏ vào chiếc túi làm bằng bẹ chuối gập lại (gọi là xà lẹt), đem treo trước hàng dậu, gần cửa ngõ.
Cúng thành là dâng cúng tây cung vương mẫu và các
vị thần thủy
phủ, địa phủ phối thuộc. Lễ vật gồm một con gà luộc, đĩa xôi,
ba đĩa cua trứng,
một giò heo luộc và mâm cơm. Đồ mà gồm một hình nộm (hay tranh vẽ) mỹ nữ
để
thế mạng, các tờ tranh lốt chúa thủy phủ, tranh lốt năm hoàng tử, ba Phạm tinh,
tám tranh bát âm, một tranh voi ngựa, thuyền bè, tranh ông đốc chèo thuyền, tranh ba tầng lầu, bồn hoa. Lễ cúng thành đầu tiên
lúc
người phụ nữ trưởng thành, sau đó, thường ba năm một lần cúng, gọi là thành lệ, khi có thai lại cúng, gọi là thành thai, cho đến 60 tuổi cúng
lần
cuối cùng để ra lão, chấm dứt chuyện thờ bà.