Biến đổi khí hậu đang là một trong những thách thức lớn nhât đối với nhân loại, có tác động bất lợi trên nhiều lĩnh vực của đời sống trên cả quy mô toàn cầu, khu vực và quốc gia. Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề của các hiện tượng thời tiết, khí hậu cực đoan, trong đó bão, lũ lụt và hạn hán là thường xuyên và nguy hiểm nhất. Các hiện tượng thời tiết, khí hậu cực đoan gia tăng, không những gây ảnh hưởng và thiệt hại nhiều tới tài nguyên, kinh tế, phát triển xã hội, mà còn có thể ảnh hưởng đến các mục tiêu phát triển bền vững (PTBV) của đất nước. Tổng thiệt hại do thiên tai gây ra đối với nước ta trong một thập kỷ gần đây từ năm 2009 - 2019 gần 250 nghìn tỷ đồng và thiệt hại về người lên tới hơn 2.500 người. Tính riêng năm 2018, với hơn 13 cơn bão và áp thấp nhiệt đới, 212 trận dông, lốc sét, 14 trận lũ quét, sạt lở đất; 9 đợt gió mạnh trên biển; 4 đợt rét đậm, rét hại; 11 đợt nắng nóng, 23 đợt không khí lạnh; 30 đợt mưa lớn trên diện rộng và lũ lớn tại thượng nguồn sông Cửu Long sau 7 năm kể từ 2011, thiệt hại cho nền kinh tế ước tính 20.000 tỷ đồng và làm 218 người chết và mát tích. Từ những kết quả đánh giá sự thay đổi cùa các hiện tượng thời tiết, khí hậu cực đoan tại Việt Nam trong thời gian gần đây, khả năng tác động đến các mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam và để xuất một số giải pháp ứng phó.
1. Những ghi nhận về cực đoan khí hậu ở Việt Nam
- Bão, áp thấp nhiệt đới: Là quốc gia có đường bờ biền
dài trên 3.000km với gần 110.000 tàu thuyển đánh bắt hải sản, cùng với các hoạt
động kinh tế, vận tải trên biển, ven biển nên thường xuyén chịu tác động trực
tiếp của các cơn bão hình thành từ Thái Bình Dương (một trong 05 ổ bão lớn nhát
thế giới); trung bình hàng năm có từ 11 -ỉ-12 cơn bão và áp thấp nhiệt đới trên
Biển Đông, trong đó 5 đến 6 cơn ảnh hưởng trực tiếp đến đất liền. Điển hình phải
kể đến: bão Linda năm 1997 đổ bộ vào phía Nam bán đảo Cà Mau và đúng 20 năm sau
(năm 2017) đã xuất hiện bão Tembin có hướng di chuyền và cường độ tương tự như
bão Linda; bão Damrey nám 2005 đổ bộ vào khu vực phía Nam của Thanh Hóa trùng với
thời kỳ triều cường, gió cấp 10-11, giật cáp 12, đã phá hủy nghiêm trọng hệ thống
đê biển và cơ sở hạ tầng (12 năm sau, năm 2017 một cơn bão cũng có tên là
Damrey đổ bộ vào Phú Yên, Khánh Hòa với gió mạnh cáp 9, giặt cấp 12 -13, chưa từng
xảy ra tại các tỉnh Nam Trung Bộ gây thiệt hại lớn về người và tài sản); năm
2013, có 14 cơn bão và 05 áp thấp nhiệt đới ảnh hưởng
đến nước ta, trong đó có siêu bao Haiyan với sức gió cấp 16 đến 17 và đặc biệt
nàm 2017, là năm kỷ lục về số lượng bão và áp tháp nhiệt đới, với 16 cơn bão,
04 áp thấp nhiệt đới xuất hiện và hoạt động trên Biển Đông, trong đó bao số 10,
số 12 đổ bộ vào khu vực Bắc và Nam Trung Bộ và bão số 16 đi qua quần đảo Trường
Sa với sức gió trên cáp 11 đến 12 giặt cấp 13 đến 15 (rủi ro thiên tai cấp độ
4). Theo số liệu quan trắc, chưa có bằng chứng về sự thay đổi tần suất của các
cơn bão bao gồm cả bão và áp tháp nhiệt đới đổ bộ vào đất liến nước ta. Tuy
nhiên, số lượng các cơn bão có cường độ mạnh có xu thế tăng lên. Mùa mưa bão hiện
nay có xu hướng kết thúc muộn hơn trước đây và nhiều cơn bão đố bộ vào khu vực
phía Nam trong những năm gền đây [2].
- Mưa lớn, ngập lụt: Trong những năm gần đây, mưa lớn
xảy ra bất thường hơn về thời gian, địa điểm, tần suất và cường độ. Mưa lớn và
đặc biệt lớn xảy ra thường xuyên trên diện rộng và cục bộ đã gây lũ lớn, ngập lụt,
lũ quét, sạt lở đất nghiêm trọng tại nhiều khu vực trên phạm vi toàn quốc,
trong đó có thể kể đến trận mưa cuối tháng 10/2008 xảy ra tại Hà Nội và đóng bằng
Bác Bộ gây ngập lụt nghiêm trọng trên diện rộng, nhất là tại thành phố Hà Nội;
mưa đặc biệt lớn kéo dài trong 5 ngày cuối tháng 7, đáu tháng 8/2015 tại Cửa
ông (Quảng Ninh); mưa lớn kéo dài liên tục từ giữa tháng 6 đến đầu tháng 7/2017
tại các tỉnh Bác Bộ ; đợt mưa lớn trên diện rộng xuất hiện trái mùa (giữa tháng
10/2017) tại khu vực Hòa Bình, Thanh Hóa, Ninh Bình với tổng lượng từ 400 đến
trên 600mm; đợt mưa đặc biệt lớn (xấp xi mức lịch sử) sau bão số 12 vào đẩu
tháng 11/2017 tại các tỉnh miền Trung đã gây ngập sâu tại TP. Huế, thị xã Hội
An đúng vào tuần lễ Hội nghị cấp cao APEC. Năm 2019, đợt mưa lớn kỷ lục ở đảo
Phú Quốc từ ngày 2/8 đến ngày 9/8 (8 ngày) đã lên tới 1.158mm (chiếm 40% tổng
lượng mưa năm), riêng ngày 9/8 có tổng lượng mưa lên đến 358 mm. Thời gian mưa chủ yếu tập trung từ nửa đêm và sáng.
- Lũ: Lũ lớn và
lũ lịch sử liên tiếp xuất hiện tại các vùng, miền trên phạm vi cả nước, điển
hình là năm 1996, 2002, 2015 ở Bắc Bộ; năm 1999, 2000, 2003, 2007, 2009, 2010,
2011, 2016, 2017 ở Trung Bộ và năm 2000, 2001, 2002, 2011 ở Nam Bộ. Trong đó một
số nơi đạt mức lịch sử, hoặc tương đương mức lũ lịch sử, như năm 1996 tại Bắc Bộ,
năm 1999 tại Huế (mức lịch sử), năm 2000 tại Đồng bằng sông Cửu Long (tương
đương mức lịch sử tại Tân Châu, Châu Đốc và một số khu vực ở gần biển vượt mức
lịch sử), năm 2011 ở Phú Yên (mức lịch sử), nãm 2016 tại Bình Định (mức lịch sử);
năm 2017 tại một số sông thuộc Ninh Bình, Thanh Hóa với mức lũ vượt mức lịch sử
từ 0,5 đến 1,0m gây hư hỏng nặng né đối với hệ thống đê điểu với 244 sự cố trên
tổng chiều dài 90km.
- Lũ quét, sạt lở đất:
Đây là loại hình thiên tai xảy ra thường xuyên tại các tỉnh miền núi, với đặc
tính xảy ra quá nhanh, quá nguy hiểm, gây thiệt hại nghiêm trọng vế người và
tài sản. Trong những năm qua, lũ quét và sạt lở đất tại các tỉnh miền núi phía
Bắc có xu thế tăng rõ rệt, với tổng số 300 trận lũ quét, sạt lở đát có quy mô
và phạm vi ngày càng lớn, gây thiệt hại nặng nề về tính mạng, tài sản của Nhà
nước và nhân dân, đặc biệt nãm 2017 và giữa năm 2018 lũ quét, sạt lở đất đặc biệt
nghiêm trọng trên diện rộng tại các tỉnh miền núi: tại huyện Mường La (tỉnh Sơn
La), Mù Căng Chải (tỉnh Yên Bái) vào đầu tháng 8/2017; tại các huyện Tân Lạc,
Đà Bắc,TP Hoà Bình (tỉnh Hòa Bình) giữa tháng 10/2017; tại các tĩnh Lai Châu,
Hà Giang vào cuối tháng 6/2018; tại Quan Sơn (Thanh Hóa) vào tháng 8/2019.
- Nắng nóng, hạn hán, xâm nhập mặn: Dưới tác động của
biến đổi’khí hậu, gán như chác chắn nắng nóng sẽ xảy ra với tán suất và cường độ
ngày càng gay gắt hơn. Hạn hán và xâm nhập mặn sẽ trở nên khắc nghiệt hơn.
Nhiêu kỷ lục mới vể nhiệt độ đã được thiết lập. Nắng nóng gay gắt ở các tinh Bắc
Bộ và BắcTrung Bộ năm 2014, với nén nhiệt độ cao phổ biến từ 39 đến 40°C, nhiểu
nơi trên 40°C, kéo dài kỷ lục trong vòng 60 nám qua; Ngày 20 tháng 4 nãm 2019,
nhiệt độ quan trắc được tại trạm khí tượng Hương Khê (Hà Tỉnh) là 43,4°C, là
giá trị nhiệt độ cao nhất từ trước đến nay được quan trắc tại Việt Nam. Những
năm gần đây, hiện tượng ENSO (ngày càng có tác động nghiêm trọng đến nước ta,
các đợt El Nino đã gây ra hạn hán trên phạm vi rộng, tình trạng cạn kiệt nguồn
nước tại các dòng sông trên cả nước ngày càng phổ biến, trong đó đặc biệt
nghiêm trọng là đợt hạn hán và xâm nhập mặn xảy ra trong năm 2015/2016 và
2019/2020 tại các tỉnh thuộc Tây Nguyên, Nam Trung Bộ và Đồng bằng sông Cửu
Long. Theo dự báo, xâm nhập mặn có nguy cơ tầng cao trong tương lai, đặc biệt
là ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Vào cuối thế kỷ 21, chiều sâu xâm nhập ứng với
độ mặn 1‰ có thể tăng lên trên 20km trên các sông: sông Đồng Nai, sông Tiền,
sông Hậu, xấp xỉ 10km trên sông Hồng - Thái Bình [2].
- Rét đậm, rét hại: Xảy ra thường xuyên và duy trì
nhiều ngày, nhất là ở vùng núi phía Bắc và Bắc Trung Bộ. Trong đó đăc biệt là đợt
rét đầu năm 2016, được đánh giá có nền nhiệt độ thấp nhất trong vòng 100 năm
qua. Với tác động của biến đổi khí hậu, nên nhiệt độ trung bình có thể tăng
nhưng các đợt lạnh bất thường dự báo sẽ xảy ra nhiều hơn trong tương lai.
2. Tác động của biến đổi khí hậu đến phát triển bển vững
Theo Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện chương trình nghị
sự 2030 vì sự phát triển bến vững được Thủ tướng Chính phủ ban hành năm 2017,
Việt Nam hướng tới mục tiêu duy trì tăng trưởng kinh tế bền vững đi đôi với thực
hiện tiến bộ, công bằng xá hội và bảo vệ môi trường sinh thái, quản lý và sử dụng
hiệu quả tài nguyên, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu; bảo đảm mọi người
dân được phát huy mọi tiềm năng, tham gia và thụ hưởng bình đẳng thành quả của
phát triển; xây dựng một xã hội Việt Nam hòa bình, thịnh vượng, bao trùm, dân
chủ, cóng bằng, văn minh và bền vững. Trong đó, bao gồm 17 mục tiêu chính và
115 mục tiêu cụ thể.
- Tính dễ bị tổn thương và phơi bày trước hiểm họa gia tăng:
Tính dễ bị tổn thương và mức độ phơi bày trước hiểm họa đang
gia tăng được xác định trong từng bối cảnh cụ thể, tương tác với hiểm họa tạo
nên các rủi ro [3]. biến đổi khí hậu làm thay đổi hiện tượng cực đoan, thông
qua đó làm thay đổi mức độ phơi bày và tính dễ bị tổn thương hệ sinh thái tự
nhiên và hệ sinh thái nhân sinh. Ở Việt Nam, biến đổi khí hậu làm gia tăng hiện
tượng cực đoan và thiên tai, mức độ phơi bày và tính dê bị tổn thương. Tùy thuộc
vào điếu kiện của từng vùng, chịu tác động cùa các yếu tố khác nhau mà đói tượng
bị tổn thương và mức độ bị tổn thương cũng khác
nhau, các lĩnh vực dễ bị tổn thương nhất là nông nghiệp và an ninh lương thực,
các hệ sinh thái tự nhiên, đa dạng sinh học, tài nguyên nước, sức khỏe cộng
đóng, nơi cư trú và hạ tầng kỹ thuật. Tất cả các vùng đều bị tổn thương do
thiên tai gia tăng, trong đó Đồng bằng sông Cửu Long, Đồng bằng sông Hồng, khu
vực ven biển miền Trung là các vùng dễ bị tổn thương nhất.
Trong mỗi vùng, nhóm người nghèo, dân tộc thiểu số, những
người có thu nhập phụ thuộc vào khí hậu, người già, phụ nữ, trẻ em, người bị bệnh
tật bị tốn thương cao nhất do biến đổi khí hậu.
- Sự gia tăng rủi ro do biến đổi khí hậu:
Sự gia tăng rủi ro và tác động tiềm tàng cùa biến đổi khí
hâu đói với các lĩnh vực, các khu vực, cộng đồng và cơ sở hạ tầng liên quan bao
gồm:
Dải ven bờ với chiều dài hơn 3.000km và các vùng biển hải đảo
Việt Nam là vùng sẽ chịu nhiểu rủi ro gia tăng và các nguy cơ, tác động tiềm
tàng nhiều nhát liên quan đến biến đổi khí hậu và nước biển dâng (NBD). Với sự
thay đổi có xu thế gia tăng của các hiện tượng khí hậu cực đoan dân đến gia
táng rủi ro cho các vùng, các lĩnh vực và các đối tượng dễ bị tổn thương. Trong
tương lai nếu mực nước biển dâng 100cm và không có các giải pháp ứng phó,
khoáng 16,8% diện tích Đồng bằng sông Hồng, 1,5% diện tích các tỉnh ven biển miền
Trung từ Thanh Hóa đến Bình Thuận, 17,8% diện tích TP. Hố Chí Minh, 38,9% diện
tích Đóng bằng sông Cửu Long có nguy cơ bị ngập dẫn đến mất đất canh tác nông
nghiệp, nước tưới cho nông nghiệp, sinh hoạt và công nghiệp bị nhiễm mặn ảnh hưởng
nghiêm trọng đến đời sống của người dân các khu vực này [2].
Tương tự như vậy, rủi ro sẻ ngày càng gia tăng đối với các vùng
đồng bằng châu thổ và đô thị lớn, đặc biệt là các đô thị ven biển do mật độ dân
cư cao, có quy hoạch đô thị và quy hoạch không gian chưa xét đến giảm nhẹ rủi
ro thiên tai và thích ứng với biến đổi khí hậu.
Đây cũng là nơi tập trung nhiều tài sản, công trình hạ tầng và các nhóm dân cư dễ
bị tổn thất nhất. Dưới tác động của biến đổi khí hậu, ở Đồng bằng sông Cửu
Long, ước tính hàng trăm ngàn ha đất bị ngập, hàng triệu người có thể bị mất
nhà cửa nếu nước biển dâng cao. Sản lượng lương thực có nguy cơ giảm sút lớn,
đe doạ tới an ninh lương thực của quốc gia. Diện tích canh tác nông nghiệp sử dụng
nguồn nước ngọt như lúa, màu, cây ăn trái và nuôi trồng thủy sản sẽ bị thu hẹp,
năng suất và sản lượng sẽ suy giảm. Cá nước ngọt dự kiến sẽ suy giảm vì diện
tích đất đồng bằng và dòng sông nhiễm mặn gia tăng. Ngược lại, cá nước mặn, lợ
sẽ phát triển. Diện tích nuôi tôm, sò và hải sản khác có thể sẽ gia tăng trong
tương lai.
Vùng núi phía Bắc và duyên hải Trung Bộ sẽ chịu nhiều rủi ro
hơn do lũ quét và trượt lở đất khi chế độ mưa thay đổi, với tần suất và cường độ
mưa lớn ngày càng nhiều. Với đặc điểm là khu vực có tỉ lệ đói nghèo cao, nguồn
lực đề ứng phó với biến đổi khí hậu còn hạn chế, môi trường sinh thái bị suy
thoái, địa hình phức tạp, sinh kế của người dân tộc thiểu số khu vực miền núi
phụ thuộc chủ yếu vào nông, lâm nghiệp và thiên nhiên, đây là lĩnh vực dê bị tổn
thương nhất trước tác động của biến đổi khí hậu.
Những vùng có rủi ro cao hơn và dễ bị
tổn thương hơn do hạn hán và thiếu nước dẫn đến hoang mạc hoá bao gồm: Duyên
hải Trung Bộ và Nam Trung Bộ, Đồng bằng Băc Bộ, trung du và khu vực Tây Nguyên
- Tốc động của biến đổi khí đến các mục tiêu phát triển bề
vững:
Biến đổi khí hậu có thể tác động đến việc đạt được các mục
tiêu PTBV, thể hiện qua các quá trình sau: (1) Quá trình diễn ra từ từ, bao gồm
các yếu tố: Nhiệt độ tăng, nước biển dâng; và (2) Quá trình diễn ra nhanh thông
qua việc gia tăng các cực đoan, bao gồm các yếu tố: Bão; lũ lụt; lũ quét; mưa lớn
và ngập lụt đô thị; hạn hán; năng nóng; rét hại; xâm nhập mặn.
Kết quả tính toán của Bộ Tài nguyên và Môi trường [3] cho thấy,
mức độ tác động của biến đổi khí hậu đến các mục tiêu PTBV, tương ứng là: Mục
tiêu 6: (10,6%); Mục tiêu 13: (8,9%); Mục tiêu 10: (7,6%); Mục tiêu 1: (6,8%);
Mục tiêu 3: (6,8%); Mục tiêu 5: (6,8%); Mục tiêu 9: (6,8%); Mục tiêu 8: (5,9%);
Mục tiêu 11: (5,9%); Mục tiêu 2: (5,1%); Mục tiêu 7: (5,1%), Mục tiêu 15:
(5,1%); Mục tiêu 12: (4,7%); Mục tiêu 4: (3,8%); Mục tiêu 14: (3,8%); Mục tiêu
16: (3,4%); Mục tiêu 17: (3,0%). Từ kết quả phân tích, có thể thấy các mục tiêu
6 và mục tiêu 13 là nhạy cảm nhất đối với biến đổi khí hậu. Nói một cách khác,
biến đổi khí hậu và cực đoan gia tăng sẽ gây trở ngại lớn nhất cho việc đạt được
mục tiêu 6 về “Đảm bảo đầy đủ và quản lý bến vững tài nguyên nước và hệ thống vệ
sinh cho tất cả mọi người” và mục tiêu 13 về “ứng phó kịp thời, hiệu quả với biến
đổi khí hậu và thiên tai”.
Mức độ tác động đến các mục tiêu PTBV do nhiệt độ tăng, nước
biển dâng, bão và áp thấp nhiệt đới, mưa cực đoan và ngập lụt đô thị, lũ lụt, hạn
hán, xâm nhập mặn, nâng nóng và rét hại tương ứng là 11,5%, 173%, 11,1 %,
12,0%, 11,1 %, 16,3%, 10,6%, 8,7%, và 1,4%. Từ kết quả phân tích trên, có thể
thấy nước biển dâng và hạn hán có tác động lớn nhất đến các mục tiêu PTBV.
3. Tăng cường năng lực dự báo, cảnh báo phòng, chống
thiên tai, tiên phong ứng phó biến đổi khí hâu
Kết quả đạt được:
Thực hiện mục tiêu đến năm 2020 theo định hướng cùa Nghị quyết
số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương là “nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo
thiên tai, giám sát biến đổi khí hậu” với đích đến đặt ra là “Xây dựng, phát
triển năng lực nghiên cứu, giám sát biến đổi khí hậu, dự báo, cảnh báo thiên
tai đạt trình độ tương đương nhóm các nước dân đáu trong khu vực Đông Nam Á”.
Trong những năm qua, Ngành khí tượng thủy văn luôn nỗ lực phấn đấu để hoàn
thành, kết quả được thể hiện qua các công việc như sau:
- Thể chế về quản lý khí tượng thủy văn được tăng cường: Trước
năm 2013, Ngành khí tượng thủy văn được quản lý thông qua các quy chế, quy phạm
ngành. Năm 2015, Ngành khí tượng thủy văn đã trình Quốc hội và được thông qua
Luật khí tượng thủy văn, từ khi có Luật khí tượng thủy văn, các văn bản hướng
dân thi hành luật và các văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành: 01 Nghị định
của Chính phủ, 03 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ và trên 50 Thông tư và các
văn bản quy phạm pháp luật. Đặc biệt năm 2021 đã trình Ban Bí thư đã ban hành
Chỉ thị số 10-CT/TW, ngày 25/9/2021 nhằm thúc đẩy phát triển, tăng cường, nâng
cao vai trò của Ngành khí tượng thủy văn trong cùng tién trình phát triển kinh
tế - xã hội, phòng chống thiên tai và bảo vệ chủ quyén đất nước.
- Năng lực giám sát
BĐKH đá có tiến bộ; mạng lưới quan trăc khí tượng thủy văn được bổ sung và hiện
đại hóa: Mạng lưới trạm quan trắc khí tượng thủy văn quốc gia từng bước được củng
cố và đổi mới theo hướng tự động hóa. Đề án hiện đại hoá công nghệ dự báo và mạng
lưới quan trắc khí tượng thủy văn đã đạt được kết quả bước đầu quan trọng, góp
phán nâng cao năng lực, hiện đại hóa việc điều hành tác nghiệp khí tượng thủy
văn hàng đầu khu vực Đông Nam A: Đến nay, mạng lưới trạm khí tượng thủy văn quốc
gia có khoảng 1.835 trạm với tỷ lệ tự động hóa các hoạt động quan trắc khí tượng
thủy văn đạt từ 70% đến 80%; hoàn thành hệ thống hạ tầng kỹ thuật của 10 trạm
ra đa thời tiết.
- Xây dựng hệ thống cơ
sở dữ liệu tổng hợp và thống nhất theo chuổn quốc tế; có cơ chế phù hợp khai
thác, chia sẻ thông tin, sử dụng có hiệu quả cơ sở dữ liệu: Cơ sở dữ liệu về
khí tượng thủy văn và thiên tai khí tượng thủy văn, khí hậu đã được xây dựng và
liẻn tục cập nhật. Đã xây dựng được Trung tâm dữ liệu (Data center) khí tượng
thủy văn đạt gần tới tiêu chuẩn quốc tế. Toàn bộ dữ liệu khí tượng thủy văn
trong và ngoài nước được tích hợp, tổ chức xử lý, lưu trữ, khai thác và cung cấp
theo hướng tập trung, đóng bộ; các công tác nghiệp vụ dự báo, cảnh báo khí tượng
thủy văn đều sử dụng dữ liệu tại Trung tâm dữ liệu; Đã đầu tư hệ thống tính
toán hiệu năng cao CrayXC40 (siêu máy tính) với năng lực tính toán đạt
80-100TFLOPS; Đã hoàn thành và đưa vào sử dụng Trung tâm điếu hành tác nghiệp
khí tượng thủy văn từ năm 2015.
- Xây dựng năng lực và
công nghệ dự báo, cành báo khí tượng thủy vàn, thiên tai khí tượng thủy vàn đừng
hàng đàu khu vực Đông Nam Á: Ngành khí tượng thủy
văn Việt Nam đã nỗ lực thay đổi công tác dự báo, phát triển theo hướng hiện đại
hóa, chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ hiện đại, tự động nhằm tạo ra các sản phẩm
đa dạng, với chất lượng tốt hơn, phục vụ công tác phòng chống thiên tai, phát
triền kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh. Theo đó, hệ thống dự báo đã có nhiều
thay đổi, từ các dự báo thủ công, kinh nghiệm đã được chuyển đổi sang hệ thống
dự báo số độ phân giải cao.
Ngành khí tượng thủy văn đã tự vận hành được hệ thống mô
hình dự báo thời tiết có độ phân giải đến 3km, tiến tới sẽ đạt mức 1 - 2km, cho
phép tích hợp các số liệu như radar, đo đạc tự động giúp nâng cao được khả năng
chất lượng dự báo. Độ tin cậy trong các bản tin dự báo, cảnh báo thiên tai (áp
tháp nhiệt đới, bão, lũ,...) đã được tăng lên; các công nghệ dự báo khí tượng
thủy văn nằm trong nhóm các nước dẫn đầu Đông Nam Á và dần tiếp cận trình độ
các nước tiên tiến ở châu Á, đặc biệt là trong dự báo, cảnh báo bão, mưa lớn,
rét đậm, rét hại, lũ lụt và nắng nóng: Độ chính xác về dự báo vị trí và cường độ
bão hiện nay đã dẫn tiệm cận với trình độ dự báo của các nước tiên tiến trong
khu vực và trên thé giới; dự báo, cảnh báo mưa lớn đạt trước 2 - 3 ngày với độ
tin cậy khoảng 75%; dự báo, cảnh báo rét đâm, rét hạl gây ra bởi không khí lạnh
trước 2 - 3 ngày với độ tin cậy 80 - 90%; dự báo, cảnh báo lũ trên các sông khu
vực miền Trung, Tây Nguyên trước 1 - 2 ngày và ở khu vực Bắc Bộ trước 3-5 ngày
thường đạt 70 - 80%; dự báo, cảnh báo các đợt nắng nóng diện rộng trước từ 2 -
3 ngày với độ tin cậy 70%, thời điểm kết thúc các đợt nắng nóng diện rộng chính
xác từ 80 - 90%.
Đặc biệt năm 2018, Tổng cục Khí tượng thủy văn của Việt Nam
được Tổ chức Khí tượng thế giới WM0 lựa chọn là Trung tâm hỗ trợ dự báo thời tiết
nguy hiểm Đông Nam Á; Năm 2022, WM0 tiẽp tục chọn Tổng cục Khí tượng thủy văn
Việt Narn làm Trung tâm hỏ trợ cảnh báo lũ quét Đông Nam A (SeAFFGS).
Hiệu quả của các bản tin đã đem lại đóng góp thực tế đối với
xã hội như: Năm 2019, trong dự báo hạn mặn, nhờ dự báo sớm nên mặc dù hạn hán
và xâm nhập mặn xảy ra với quy mô lớn và mức độ khóc liệt nghiêm trọng nhất
trong lịch sử tại Đóng bằng sông Cửu Long, tuy nhiên mức độ thiệt hại đén sản
xuất, dân sinh được giảm thiểu đặc biệt là thiệt hại về sản xuất nông nghiệp chỉ
bằng khoảng 10% so với năm 2016; Năm 2022, dự báo sát về cường độ bão số 4 (bão
Noru), giúp Chính phủ và Ban Chỉ đạo quốc gia về phòng, chống thiên tai, chính
quyền địa phương các cấp, người dân, doanh nghiệp chủ động phòng, chống thiên
tai hiệu quả, góp phán giảm nhẹ thiệt hại về người và tài sản của Nhân dân...
- Về quản lý tài nguyên: Nhằm triển khai thực hiện kết quả Hội
nghị COP26, mục tiêu cam két của Việt Nam đạt mức phát thải ròng bằng
"0" vào năm 2050, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã chỉ đạo Tổng cục Khí
tượng thủy văn phối hợp với các đơn vị trực thuộc Bộ xây dựng Báo cáo đánh giá
tiềm nâng năng lượng bức xạ, gió và sóng tại Việt Nam. Báo cáo là tài liệu hữu
ích để các bộ, ngành, địa phương tham khảo và sử dụng trong quá trình hoạch định,
xây dựng và cặp nhặt chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triền liên quan đến
năng lượng tái tạo, đặc biệt là năng lượng bức xạ, gió và sóng tại Việt Nam.
Tồn tại, hạn chế:
Mặc dù đã đạt được những kểt quả nhất định tuy nhiên thực tiễn
cho thấy hiện nay, Ngành khí tượng thủy văn đã và đang gặp một số thách thức,
tác động khách quan, chủ quan, có thể khái quát là:
- Vấn để biến đổi
khí hậu:
BĐKH ngày càng có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, với
nhiều tác động tiêu cực, thậm chí còn diễn ra nhanh hơn nhiều so với các dự
báo. Tại Việt Nam, BĐKH đã và đang có tác động sâu sác đến mọi lĩnh vực phát
triển kinh tế - xã hội, các khu vực, vùng miền. Các hiện tượng thời tiết cực
đoan ngày càng gia tăng đã gây thiệt hại nặng nề cho nền kinh tế và là một
trong những thách thức lớn nhất đặt ra đối với công tác khí tượng thủy văn.
- Vấn đề khai thác,
sử dụng nước ở Mê Kông và nhu cầu bổ sung số liệu khí tượng thủy văn phục vụ
phát triển kinh tế - xã hội, báo đảm quốc phòng - an ninh quốc gia:
Hiện nay, vấn đế khai thác, quản lý nguồn nước sông Mê Kông,
khoảng trống số liệu khí tượng thủy văn ở Biển Đông, đặc biệt ở khu vực vùng biển
và ven biển Tây Nam của đất nước đang đặt ra những thách thức ngày càng trở nên
cấp thiết, cần có những giải pháp, chiến lược ứng phó ở quy mô cáp quốc gia,
trong đó vai trò của công tác khí tượng thủy văn đã và đang có liên quan và chịu
sự tác động trực tiếp.
- Chiến lược, các hoạt
động phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong giai đoạn mới và sự phát
triển mạnh mẽ của khí học công nghệ 4.0:
Chiến lược phát triển kinh tế - xâ hội của Việt Nam hiện nay
đang đặt ra những vấn đề mới đối với công tác
khí tượng thủy văn. Bên cạnh đó, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ
trong cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, Big data, trí tuệ nhân tạo..., tương ứng
với quy mô nền kinh tế nước ta ngày càng lớn đã đặt ra yêu cáu mới đối với
Ngành khí tượng thủy văn.
- Một số tốn tại, khó khăn:
+ Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, tiêu chuẩn, quy chuẩn
kỹ thuật điếu chỉnh hoạt động dự báo, cảnh báo khí tượng thủy văn đang trong
quá trình xây dựng, hoàn thiện, chưa đầy đủ so với yêu cầu quản lý nhà nước về
khí tượng thủy văn.
+ Mạng lưới quan trắc khí tượng thủy văn quốc gia nhìn chung
vẫn còn thưa, đặc biệt trên biển, công nghệ quan trắc tự động chưa được trang bị
nhiều, do đó chưa đáp ứng yêu cáu của công tác dự báo đòi hỏi ngày càng cao và
chính xác. Chưa kịp thời khác phục, sửa chữa, thay thế linh kiện khí hư hại,
gây khó khăn đảm bảo duy trì hoạt động ổn định, liên tục và chính xác.
+ Cơ sở vật chất và trang thiết bị quan trăc khí tượng thủy
văn mặc dù đã được đáu tư nhưng vẫn chưa đáp ứng tình hình thực té; công tác dự
báo, cảnh báo đối với một số loại hình thiên tai xảy ra trong thời gian rất ngắn,
phạm vi hẹp như mưa lớn cục bộ, lốc, sét, mưa đá, lũ quét, sạt lở đát còn hạn
chế. Đây cũng là khó khăn chung của các cơ quan dự báo trên thế giới và cần được
đáu tư nghiên cứu để cải tiến trong những năm tới.
Định hướng phát triển:
Công tác khí tượng thủy văn là nhiệm vụ quan trọng, thường
xuyên, lâu dài, có tính đặc thù, liên vùng, liên ngành, xuyên biên giới, giữ vị
trí quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đòi hỏi phải có sự
quan tâm cùa các cấp, các ngành và toàn xã hội; thông tin, dữ liệu khí tượng thủy
văn là đầu vào quan trọng để thực hiên mục tiêu, yêu cầu phát triển các ngành,
lĩnh vực kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia và phục vụ thiết
thực đời sống sinh hoạt hằng ngày của Nhân dân.
Theo Chiến lược phát triển Ngành khí tượng thủy văn đến nàm
2030: Ngành khí tượng thủy vản của Việt Nam đạt trình độ khoa học công nghệ
tiên tiến của khu vực châu Á; đủ năng lực cung cấp thông tin, dữ liệu khí tượng
thủy văn đầy đù, tin cậy, kịp thời đáp ứng các yêu cầu phát triển kinh tế - xã
hội, phòng chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo đảm quốc phòng,
an ninh quốc gia; hình thành được thị trường dịch vụ, công nghệ khí tượng thủy
văn phục vụ đa mục tiêu, đa lĩnh vực; Đến năm 2045: Phát triển Ngành khí tượng
thủy văn của Việt Nam có trình độ, năng lực tương đương các nước phát triển
trên thế giới.
Các nhiệm vụ cụ thể trong thời gian sắp tới:
- Triển khai thực hiện
Chỉ thị số 10-CT/TW, ngày 25/9/2021 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác khí tượng thủy văn đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc và Chiến lược phát triển Ngành khí tượng thủy văn đến năm 2030, tầm nhìn đến
năm 2045 tại Quyết đinh số 1970/QĐ-TTg, ngày 23/11/2021 của Thủ tướng Chính phủ.
Đặc biệt là tập trung rà soát, đánh giá việc thi hành Luật khí tượng thủy văn,
xây dựng và thực hiện dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật khí tượng
thủy văn.
- Đẩy nhanh tiến độ thực
hiện các nhiệm vụ đã được giao tại Nghị quyết số 76/NQ-CP, ngày 18/6/2018 của
Chính phủ về công tác phòng, chống thiên tai và Chương trình cập nhật phân vùng
rủi ro thiên tai, lập bản đố cảnh báo thiên tai, đặc biệt là các thiên tai liên
quan đến bão, nước dâng do bảo, lũ, lũ quét, sạt lở đất, hạn hán, xâm nhập mặn
theo Quyết định số 705/QĐ-TTg, ngày 07/6/2018 của Thủ tướng Chính phủ.
- Tập trung đẩy nhanh tiến độ xây dựng và thực hiện Đề án “Cảnh
báo sớm sạt iở đát, lũ quét khu vực mién núi, trung du Việt Nam” và Đề án “Tăng
cường dự báo, đánh giá tác động và các giải pháp phòng, chống thiên tai, nâng
cao khả năng ứng phó và thích ứng với biến đổi khí hậu trên địa bàn vùng Bâc
Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ” nhằm tăng cường năng lực cảnh báo sớm thiên
tai, đặc biệt là thiên tai vé sạt lở đất, đá.
4. Một số đế xuất và giải pháp
Biến đổi khí hậu tác động đến các ngành, các vùng miền của cả
nước và các đói tượng người dân. Do đó, biến đổi khí hậu sẽ là nguy cơ hiện hữu
đối với các mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam. Đề có thể đảm bảo được
các mục tiêu phát triển bén vững, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực và thực hiện nhiều
giải pháp thích ứng, từ các chính sách, chiến lược, kế hoạch đến các chương
trình dự án cụ thể.
Trong điều kiện biến đổi khí hậu làm gia tăng các hiện tượng
khí hậu cực đoan và thiên tai, cả về tần suất và cường độ, đòi hỏi sự nỗ lực
hơn nữa trong công tác phòng tránh thiên tai của cả hệ thống chính trị, xã hội.
Để tăng cường khả năng chống chịu của cộng đồng, đảm bảo phát triền kinh tế -
xã hội theo hướng xanh và bền vững tại Việt Nam, cán giải quyết tốt một số nội
dung sau:
Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống chính sách, chiến lược, kế hoạch
liên quan đến phòng chống thiên tai và thích ứng với biến đói khí hậu; lồng
ghép thích ứng với biến đổi khí hậu vào các chính sách, chiến lược, chương
trình, dự án có liên quan, đặc biệt là trong việc lập kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội, sự tích cực tham gia cùa các Bộ, ngành và địa phương
Thứ hai, nâng cao năng lực phối hợp, chia sẻ thông tin, dữ
liệu giữa các địa phương, các bộ ban ngành trong phòng chống thiên tai và thích
ứng với biến đổi khí hậu.
Thứ ba, tăng cường hợp tác, hỗ trợ nghiên cứu, dự báo, cảnh
báo sớm các hiện tượng thiên tai, thời tiết cực đoan để kịp thời cảnh báo đến
người dân. Vì thông tin, dữ liệu KTTV được xác định đúng với tính chất thực tế
là nguồn tài nguyên số, một trong những dữ liệu “đầu vào” quan trọng để xây dựng
các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của các ngành,
địa phương.
Thứ tư, tăng cường khả năng chống chịu và phục hồi của hệ thống
tự nhiên và xã hội trước các tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu; Triển khai
các giải pháp thích ứng nhằm giảm thiều thiệt hại gây ra bởi các tác động liên
quan đến những thay đổi của khí hậu trong tương lai.
Thứ năm, xây dựng năng lực của cộng đóng, các thành phần
kinh tế và hệ sinh thái; xây dựng các chương trình giáo dục, đào tạo và các
kênh truyền thông hiệu quả để chuyển tải thông tin; Tăng cường các giải pháp
huy động nguón lực tài chính cho thích ứng với biến đổi khí hậu; tận dụng các
cơ hội do biến đổi khí hậu mang lại đối với phát triển kinh tế - xã hội.